QUẢN LÝ NỢ CÔNG: Điểm sáng trong điều hành chính sách tài khóa
Tết Giáp Thìn - Ngày đăng : 09:33, 03/02/2024
QUẢN LÝ NỢ CÔNG:Điểm sáng trong điều hành chính sách tài khóa
Quy mô nợ công đến cuối năm 2023 khoảng 37% GDP và thấp hơn nhiều so với mức trần 60% Quốc hội đề ra. Có thể nói, kết quả quản lý nợ công trong những năm gần đây là điểm sáng trong việc điều hành chính sách tài khoá nói riêng và chính sách vĩ mô nói chung của Việt Nam.
Quy mô nợ công đến cuối năm 2023 khoảng 37% GDP và thấp hơn nhiều so với mức trần 60% Quốc hội đề ra. Có thể nói, kết quả quản lý nợ công trong những năm gần đây là điểm sáng trong việc điều hành chính sách tài khoá nói riêng và chính sách vĩ mô nói chung của Việt Nam.
Nhân dịp chào Xuân Giáp Thìn, Báo điện tử VietnamPlus đã hân hạnh được trò chuyện cùng Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc về công tác quản lý nợ công tại Việt Nam.
- Thưa Bộ trưởng, theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, nợ công của Việt Nam bền vững và có nhiều dư địa để thực hiện các chính sách tài khóa mở rộng. Xin Bộ trưởng chia sẻ thêm về nội dung này?
Bộ trưởng Hồ Đức Phớc: Kết quả quản lý nợ công là điểm sáng trong điều hành chính sách tài khóa và chính sách vĩ mô. Nợ công của Việt Nam được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và tổ chức quốc tế đánh giá là bền vững và tạo dư địa để thực hiện các chính sách tài khóa mở rộng, hợp lý khi cần thiết, đặc biệt là trong đợt bùng phát nghiêm trọng dịch COVID-19 vừa qua.
Nợ công giữ ở mức bền vững, ổn định với quy mô đến cuối năm 2023 khoảng 37% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trần 60% Quốc hội đề ra. Bên cạnh đó, nợ Chính phủ khoảng 34% GDP và thấp hơn nhiều so với trần 50%. Trên bình diện quốc tế, mức dư nợ này thấp hơn nhiều so với mức trung bình năm 2023 của các quốc gia có mức xếp hạng tín nhiệm BB là 52,8% GDP và BBB là 54,9% GDP, trong khi mức tín nhiệm của Việt Nam còn thấp hơn 1 bậc so với mức tín nhiệm BBB.
Thời gian qua, hoạt động cơ cấu nợ được thực hiện tích cực. Theo đó, dư nợ trong nước tăng lên, chiếm khoảng 71% dư nợ Chính phủ, góp phần giảm thiểu rủi ro tỷ giá.
Đến nay, nợ trong nước chủ yếu là trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn phát hành dài, giảm thiểu rủi ro vay đảo nợ. Kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu Chính phủ dự kiến năm 2023 khoảng 12,4-12,5 năm. Điều này đảm bảo mục tiêu kỳ hạn vay từ 9-11 năm theo Nghị quyết của Quốc hội số 23/2021/QH15 về Kế hoạch Tài chính Quốc gia và Vay trả Nợ công 5 năm (giai đoạn 2021-2025). Trong năm qua, lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ được điều hành thận trọng, đảm bảo phối hợp hài hòa với điều hành chính sách tiền tệ. Cụ thể, lãi suất phát hành bình quân cả danh mục trái phiếu Chính phủ dự kiến năm 2023 khoảng 3,3%/năm, giảm 0,18 điểm phần trăm so với năm 2022 trong bối cảnh lãi suất toàn cầu vẫn duy trì xu hướng tăng.
Nợ công của Việt Nam được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và tổ chức quốc tế đánh giá là bền vững và tạo dư địa để thực hiện các chính sách tài khóa mở rộng, hợp lý khi cần thiết, đặc biệt là trong đợt bùng phát nghiêm trọng dịch COVID-19 vừa qua.
Nợ nước ngoài đang giảm dần trong cơ cấu vay của Chính phủ. Danh mục nợ nước ngoài hiện hành chủ yếu vẫn là các khoản vay kỳ hạn dài, lãi suất ưu đãi. Điều này góp phần tăng tính bền vững nợ trước biến động tỷ giá của các ngoại tệ mạnh trên toàn cầu. Việc Tổ chức Xếp hạng Tín nhiệm Fitch nâng hạng Việt Nam từ mức BB lên mức BB+ vào tháng 12/2023 sau khi Tổ chức Moody’s và S&P nâng hạng Việt Nam từ Ba3 lên Ba2 và BB lên BB+ trong năm 2022 đều có dấu ấn từ kết quả củng cố tài khóa và kiểm soát nợ công.
Tôi cho rằng với mức nợ thấp so với trần như hiện nay và cơ cấu nợ thuận lợi sau một thời gian Bộ Tài chính tham mưu cho Chính phủ cơ cấu lại nợ công, Việt Nam có nhiều dư địa vay nợ công để triển khai vay vốn cho những dự án lớn là động lực của nền kinh tế, tạo ra hiệu quả kinh tế nhanh nhất và bền vững nhất.
- Xin Bộ trưởng chia sẻ đâu là giải pháp chính để Chính phủ, Bộ Tài chính có được kết quả kiểm soát nợ công tích cực như thời gian qua?
Bộ trưởng Hồ Đức Phớc: Trong thời gian qua, các chỉ tiêu an toàn nợ công tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ trong giới hạn được Quốc hội phê chuẩn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và góp phần củng cố dư địa chính sách tài khóa. Bám sát chủ trương, đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước về vấn đề nợ công (như các Nghị quyết Đại hội Đảng XII, XIII, các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương II, đặc biệt là Nghị quyết số 07 của Bộ Chính trị), Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình Quốc hội Kế hoạch vay và trả nợ công 5 năm, quyết định các chỉ tiêu giới hạn an toàn nợ và các giải pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu này.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý nợ công. Cụ thể, Luật Quản lý nợ công năm 2017 đã hoàn thiện thêm một bước cơ bản khuôn khổ thể chế và chính sách quản lý nợ công, như thống nhất đầu mối giúp Chính phủ quản lý nợ công; bổ sung các công cụ quản lý nợ công chủ động, như hạn mức cho vay lại và bảo lãnh Chính phủ hàng năm, Chương trình quản lý nợ 3 năm và Kế hoạch vay-trả nợ công hàng năm; bổ sung quy định ngưỡng cảnh báo nợ công theo thông lệ quốc tế bên cạnh khái niệm trần nợ công.
Để tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc vay, trả nợ công, Bộ Tài chính đã phối hợp tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội ban hành các Luật sửa đổi bổ sung một số điều của các luật liên quan (như Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư…), sửa đổi, bổ sung một số Nghị định hướng dẫn Luật Quản lý nợ công như Nghị định về cho vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài.
Từ năm 2021 đến nay, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm liên tục nâng triển vọng tín nhiệm, nâng bậc tín nhiệm của Việt Nam. Đến nay, Việt Nam còn cách 2 bậc đối với thang điểm của tổ chức Moody’s và cách 1 bậc đối với thang điểm của tổ chức S&P và Fitch để đạt mức Đầu tư.
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn vay công và cơ cấu lại nợ công, Bộ Tài chính đã linh hoạt, chủ động triển khai việc huy động vốn theo yêu cầu tiến độ giải ngân đầu tư công, theo hướng tăng các nguồn vay trong nước với lãi suất thấp, ưu đãi, thời gian vay dài, sử dụng vượt thu ngân sách để trả nợ gốc, giảm áp lực nợ công. Bên cạnh đó, việc vay mới chỉ triển khai sau khi đánh giá kỹ tác động đến an toàn nợ công và chỉ sử dụng cho các công trình có hiệu quả kinh tế cao, hiệu quả xã hội cao, chỉ vay trong khả năng trả nợ.
Để quản lý nợ công theo hướng bền vững, chúng tôi cũng tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nợ công, công khai thông tin nợ công.
Cùng với việc triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý nợ công như nêu trên, Bộ Tài chính cũng tích cực đẩy mạnh công tác quảng bá nhà đầu tư, triển khai có hiệu quả công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia, góp phần giảm chi phí huy động vốn vay của Chính phủ theo lộ trình cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia tới năm 2030. Từ năm 2021 đến nay, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm liên tục nâng triển vọng tín nhiệm, nâng bậc tín nhiệm của Việt Nam. Đến nay, Việt Nam còn cách 2 bậc đối với thang điểm của tổ chức Moody’s và cách 1 bậc đối với thang điểm của tổ chức S&P và Fitch để đạt mức Đầu tư.
Việc nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam là điểm sáng cần ghi nhận, thể hiện sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế về các nỗ lực của Việt Nam trong công tác xếp hạng tín nhiệm cũng như công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ về kinh tế vĩ mô, tài khóa, nợ công và ngân hàng-tiền tệ. Việc nâng bậc tín nhiệm sẽ tác động tích cực trở lại toàn bộ nền kinh tế và góp phần tạo thuận lợi cho Việt Nam trong công tác huy động vốn trên thị trường với mức chi phí-rủi ro phù hợp.
- Công tác giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt kỳ vọng dù có sự nỗ lực và quyết tâm lớn của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương. Để giải bài toán đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, xin Bộ trưởng cho biết đâu là giải pháp cốt yếu trong thời gian tới?
Bộ trưởng Hồ Đức Phớc: Những năm gần đây tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động phức tạp, cùng những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều nhiều năm ảnh hưởng đến công tác giải ngân vốn đầu tư công. Tỷ lệ giải ngân chưa đạt kỳ vọng. Nếu tính trên kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao cộng kế hoạch vốn cân đối ngân sách địa phương giao tăng thì tỷ lệ giải ngân các năm 2021-2023 chỉ đạt hơn 80%.
Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận rằng, việc đưa một lượng vốn đầu tư công trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2023 (hơn 700 nghìn tỷ đồng) với vai trò dẫn dắt, thu hút các nguồn lực đầu tư từ các khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, tạo động lực tăng trưởng kinh tế đã cho thấy sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân.
Trong các năm gần đây, ngay khi được Quốc hội thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách hằng năm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, tạo động lực phát triển kinh tế.
Về phía Bộ Tài chính, ngay từ đầu năm của các kỳ kế hoạch, chúng tôi đã tích cực đôn đốc các bộ, cơ quan trung ương và địa phương phân bổ, tăng cường quản lý, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công nguồn ngân sách Nhà nước. Thực hiện kiểm tra phân bổ vốn ngay sau khi nhận được phương án phân bổ, điều chỉnh phân bổ chi tiết kế hoạch vốn đầu tư công nguồn ngân sách Nhà nước năm của các bộ, cơ quan trung ương để nhập và phê duyệt dự toán cho các dự án đủ điều kiện để có vốn thực hiện và có văn bản gửi từng bộ, cơ quan trung ương đề nghị điều chỉnh lại phương án phân bổ đối với các dự án chưa đúng quy định.
Vốn đầu tư công có vai trò dẫn dắt, thu hút các nguồn lực đầu tư từ các khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, tạo động lực tăng trưởng kinh tế
Bộ Tài chính luôn chủ động chuẩn bị đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kế hoạch năm. Bộ chỉ đạo Kho bạc Nhà nước đẩy mạnh triển khai dịch vụ công trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị sử dụng ngân sách có thể giao dịch 24/7 (kể cả ngày nghỉ/ngày lễ) tại bất cứ địa điểm nào có kết nối internet. Hàng tháng, Kho bạc kịp thời tổng hợp tình hình giải ngân của từng bộ, cơ quan trung ương và địa phương báo cáo Thủ tướng Chính phủ phục vụ công tác điều hành.
Trong thời gian tới, để giải ngân nhanh chóng vốn đầu tư công, cần sự tiếp tục vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của doanh nghiệp, người dân. Tôi cho rằng, việc đầu tiên cần làm là hoàn thiện thể chế, sửa Luật Đầu tư công, Luật ngân sách Nhà nước, Luật Đất đai và văn bản hướng dẫn thực hiện.
Chúng ta cần tách phần giải phóng mặt bằng triển khai trước, phân cấp chủ quản đầu tư, nghiên cứu thêm trường hợp chủ đầu tư có thể chủ động sử dụng một số khoản kinh phí hợp pháp ngoài kế hoạch đầu tư công trung hạn (kể cả nguồn vốn chi thường xuyên) để lập dự án, chuẩn bị đầu tư trước thay vì phải đợi tổng hợp hay bổ sung vào kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Sửa đổi Luật Đầu tư công cần bỏ nội dung cải tạo dự án đã đầu tư xây dựng ra khỏi đối tượng đầu tư công để tăng sự chủ động của các đơn vị và thực hiện hiệu quả nhiều giải pháp khác để tăng tổng cầu đầu tư.
Về tổ chức thực hiện, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương cần thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư dự án phù hợp với quy hoạch tỉnh, quy hoạch chuyên ngành và quy hoạch sử dụng đất, đảm bảo phù hợp với định mức kinh tế kỹ thuật xây dựng, tính toán tổng mức đầu tư, dự phòng hợp lý, tránh tình trạng điều chỉnh dự án nhiều lần. Công tác lựa chọn tư vấn, nhà thầu thi công chuyên nghiệp, phân bổ kế hoạch vốn đầu tư đảm bảo đúng nguyên tắc, tiêu chí quy định tại Luật ngân sách Nhà nước và Luật Đầu tư công (trước 31/12/2023).
Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương cần bố trí vốn tập trung, không dàn trải, theo đúng thứ tự ưu tiên và đủ thủ tục đầu tư theo quy định tại Luật Đầu tư công, đặc biệt là phải bố trí vốn phù hợp với tiến độ thực hiện và giải ngân của từng dự án.
Trong thời gian tới, các dự án quan trọng quốc gia đã cơ bản hoàn thành việc phê duyệt dự án, vì vậy ngay từ đầu năm 2024 các bộ, địa phương cần triển khai quyết liệt các biện pháp để đảm bảo nguồn vốn, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng và thực hiện các dự án quan trọng quốc gia.
Duy trì hoạt động của 5 Tổ công tác của Chính phủ về thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và 26 Đoàn công tác do thành viên Chính phủ làm trưởng đoàn thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Tại các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương tiếp tục thành lập các tổ công tác do chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan làm tổ trưởng để chủ động xử lý, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn một cách kịp thời.
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!