Những thành tựu nổi bật của đất nước sau 40 năm đổi mới

Mega Story - Ngày đăng : 15:42, 14/07/2025

Sau 40 năm, sự nghiệp đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mega Story

Những thành tựu nổi bật của đất nước sau 40 năm đổi mới

{Tên tác giả} 14/07/2025 15:42

Sau 40 năm, sự nghiệp đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

halv-mega-3-6-.png

halv-mega-3-5-.png

Chủ trương đổi mới đã được Đảng ta đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.

Đến nay, sau 40 năm, sự nghiệp đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


halv-mega-3-5-.png

quy-mo-kinh-te.png

Trong suốt 40 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm, các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao.

Trong 10 năm 1990-2000, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của đạt 7,5%. Giai đoạn 2006-2010, nền kinh tế nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng nhanh, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 đạt 101,6 tỷ USD (gấp 3,26 lần so với năm 2000).

Sang đến giai đoạn 2011-2020, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định vững chắc, lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế-xã hội.

Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 5,9%/năm; giai đoạn 2016-2019 ước đạt 6,8%/năm. Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất của khu vực và IMF đánh giá Việt Nam nằm trong Top 20 nền kinh tế đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019.

Đáng chú ý, năm 2020, dưới tác động của COVID-19, nhiều nước trên thế giới đã rơi vào suy thoái. Tuy nhiên, Việt Nam là một trong số ít quốc gia vẫn duy trì tăng trưởng dương (2,9%), bảo đảm an sinh xã hội.

Theo đánh giá của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, kết thúc năm 2020, Việt Nam đã đạt được “mục tiêu kép” trong phòng chống COVID-19 và duy trì tăng trưởng kinh tế. Tạp chí The Economist tháng 8/2020 đã xếp Việt Nam trong top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới.

Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.

GDP theo giá hiện hành năm 2024 ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 476,3 tỷ USD, đánh dấu một bước tiến trong phát triển kinh tế của Việt Nam.

Đặc biệt, GDP bình quân đầu người đạt 114 triệu đồng (4.700 USD), tăng 377 USD so với năm trước, cho thấy mức sống của người dân không ngừng được cải thiện. Đây là kết quả đáng khích lệ, khẳng định hiệu quả của các chính sách kinh tế và sự phát triển toàn diện của đất nước.

Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.

Qua 40 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như: cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn.

Năm 2025 được coi là thời điểm "tăng tốc và bứt phá" để đạt mục tiêu cả nhiệm kỳ 2020-2025, do đó, Chính phủ đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 8%-10%. Mới đây, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cũng đã nâng dự báo tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2025 lên 6,6%, từ mức 6,2% dự báo vào tháng 9/2024. Điều này cho thấy triển vọng tích cực của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

halv-mega-3-5-.png
cong-nghiep-hoa.png

Trong 40 năm đổi mới, đặc biệt sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, nhận thức của Đảng về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những bước phát triển mới về cả nội dung và phương thức thực hiện.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tích cực thể chế hóa đường lối, chủ trương, quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bước đầu tạo môi trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm.

Trong giai đoạn 2010-2020 tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 xuống 14,85% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng tương ứng từ 81,1% lên 85,15%, vượt mục tiêu đề ra.

Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi theo hướng hiện đại. Một số ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như khoa học-công nghệ, thiết kế công nghiệp, nghiên cứu thị trường, tài chính, ngân hàng, viễn thông... đã hình thành và từng bước phát triển.

Việc phát triển và ứng dụng khoa học-công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao có tiến bộ, tạo những tiền đề để chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.

Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực, gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh, tỷ trọng lao động ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ tăng liên tục. Năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011-2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm.

Năm 2024 chứng kiến sự gia tăng đáng kể về số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Theo báo cáo của Tổng Cục thống kê, trong năm 2024, cả nước có hơn 233,4 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 7,1% so với năm 2023. Đây là minh chứng cho sự phục hồi và phát triển của môi trường kinh doanh tại Việt Nam sau những khó khăn do tác động từ nền kinh tế toàn cầu.

halv-mega-3-1-.png

Đến năm 2023, vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 36,6 tỷ USD; năm 2024 đạt khoảng 38,23 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước thu hút FDI hàng đầu thế giới. FDI đóng góp đáng kể vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu và tạo ra hàng triệu việc làm mới cho người lao động.

Đặc biệt, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên rõ rệt: Năm 2019, năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, đứng thứ 67/141 nền kinh tế. Chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2019 tăng 8 bậc so với năm 2015, xếp thứ 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Theo Báo cáo GII 2024 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tiếp tục thăng hạng, đạt vị trí 44/133 quốc gia và nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023.

Đặc biệt, cả đầu vào và đầu ra đổi mới sáng tạo đều có sự cải thiện rõ rệt, với thứ hạng lần lượt tăng từ 57 lên 53 và từ 40 lên 36. Sự tiến bộ này cho thấy hiệu quả của những nỗ lực đầu tư vào nghiên cứu, công nghệ, cũng như việc nâng cao năng lực sáng tạo trong doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu khoa học. Đây là cơ sở để Việt Nam thu hút thêm nguồn lực đầu tư quốc tế, thúc đẩy sự cạnh tranh và phát triển kinh tế bền vững.

halv-mega-3-5-.png
xuat-khau-hang-hoa.png

Xuất khẩu hàng hóa là một thế mạnh của Việt Nam trong những năm gần đây, khi giá trị kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên và đã có 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Năm 2020, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt trên 543 tỷ USD, tăng 5% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 281 tỷ USD, tăng 6,5%; nhập khẩu hàng hóa đạt 262 tỷ USD, tăng 3,6%, xuất siêu 19 tỷ USD, mức cao nhất trong 5 năm qua. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thủy sản của Việt Nam tăng đều qua các năm, đạt 41,3 tỷ USD năm 2019.

Năm 2024, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Kết thúc năm 2024, cả nước có 36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,0% tổng kim ngạch xuất khẩu, đó là các mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện (72,584 tỷ USD); điện thoại các loại và linh kiện (53,892 tỷ USD); máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác (52,192 tỷ USD).

Ngành nông, lâm, thủy sản cũng ghi nhận nhiều kết quả ấn tượng. Giá trị xuất khẩu của nhóm này năm 2024 đạt 62,5 tỷ USD - mức cao kỷ lục từ trước đến nay, tăng 18,7% so với năm 2023. Trong đó, thủy sản mang về hơn 10 tỷ USD, tăng 12,1% so với năm trước; rau quả đạt 7,1 tỷ USD, tăng gần 27%, đánh dấu mức kỷ lục mới và trở thành điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2024.

Xuất khẩu gạo năm 2024 cũng lập kỷ lục mới cả về sản lượng và kim ngạch, giúp Việt Nam giữ vững vị thế top 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Theo đó, kim ngạch xuất khẩu gạo năm 2024 lần đầu đạt 9 triệu tấn, thu về 5,8 tỷ USD, tăng 10,6% về lượng nhưng tăng tới 23% về giá trị. Đây là bước bứt phá vô cùng ấn tượng sau 35 năm kể từ khi Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo.

halv-mega-3-58-.png

Bên cạnh thủy sản, gạo và rau quả, nhiều mặt hàng cây công nghiệp cũng đang đứng trước thời cơ tăng trưởng vượt bậc như cà-phê, tiêu, điều... Năm 2024, cả ba ngành hàng này đều nằm trong "câu lạc bộ xuất khẩu tỷ đô" với nhiều dư địa phát triển.

Đặc biệt, du lịch là lĩnh vực gặt hái được nhiều thành công, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Từ dấu ấn 10 triệu lượt khách quốc tế, 62 triệu lượt khách nội địa năm 2016, đến năm 2019 các con số này đã tăng lên đáng kể, lần lượt là 18 triệu và 85 triệu.

Sau năm 2019 là giai đoạn ngành du lịch sụt giảm mạnh do COVID-19. Tuy nhiên đến năm 2024, sự đa dạng hóa và phát triển của nhiều thị trường tiềm năng đã giúp ngành du lịch nước ta phục hồi ngoạn mục, về sát mức năm 2019 - trước khi xảy ra dịch COVID-19.

Điểm đáng chú ý trong năm 2024 là sự tăng trưởng mạnh mẽ từ thị trường Ấn Độ (với hơn 500.000 du khách Ấn Độ đến Việt Nam năm 2024 so với 392.000 du khách năm 2023), cho thấy Việt Nam đang từng bước thành công trong việc đa dạng hóa thị trường nguồn khách quốc tế.

Không chỉ đạt được những con số ấn tượng, du lịch Việt Nam còn ghi dấu ấn sâu sắc trên trường quốc tế. Năm 2024, Giải thưởng Du lịch thế giới (World Travel Awards-WTA) tiếp tục tôn vinh Việt Nam ở 3 hạng mục: Điểm đến hàng đầu châu Á, Điểm đến di sản hàng đầu châu Á và Điểm đến thiên nhiên hàng đầu châu Á. Ngoài ra còn có 45 giải thưởng hàng đầu châu Á khác dành cho các điểm đến, khu nghỉ dưỡng, doanh nghiệp lữ hành, hàng không… của Việt Nam.

Những thành tựu ấn tượng này không chỉ khẳng định vị thế của du lịch Việt Nam trên bản đồ thế giới mà còn tạo tiền đề vững chắc để ngành tiếp tục bứt phá mạnh mẽ trong những năm tiếp theo.

halv-mega-3-5-.png
phat-trien-con-nguoi.png

Từ năm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới, lĩnh vực xã hội có những thành tựu quan trọng. Nhà nước đã ban hành Bộ luật Lao động và hàng loạt các chính sách về giải quyết việc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động, phát triển nguồn nhân lực, phát huy nội lực sức lao động, phát triển thị trường lao động theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách tiền lương, đổi mới chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động... góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới.

Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính đến ngày 4/11/2024, toàn quốc số người tham gia Bảo hiểm xã hội đạt 19,365 triệu người, tăng 11,39% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: Bảo hiểm xã hội bắt buộc là 17,281 triệu người, tăng 8,3%, Bảo hiểm xã hội tự nguyện là 2,084 triệu người, tăng 45,8%.

Theo báo cáo mới nhất của Bộ Xây dựng, trong 2 năm qua, cả nước đã có 686 dự án nhà ở xã hội được triển khai với quy mô 627.651 căn. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 444/QĐ-TTg về việc giao chỉ tiêu hoàn thành nhà ở xã hội trong năm 2025 và các năm tiếp theo đến năm 2030 để các địa phương bổ sung vào chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội, thể hiện rõ chủ trương mạnh mẽ trong chiến lược an sinh và phát triển kinh tế-xã hội quốc gia.

Năm 2006, Việt Nam hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói, về đích trước 10 năm so với thời hạn (năm 2015). Giai đoạn 2010-2020, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam giảm nhanh, từ 14,2% năm 2010 xuống còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015) và giảm từ 9,2% năm 2016 xuống dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều). Việt Nam đã trở thành một trong số những nước đi đầu ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều để giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh.

Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới.

Từ năm 1990-2023, chỉ số HDI của Việt Nam đã tăng từ 0,499 lên 0,766, tăng 53,5%, cho thấy một bước tiến ấn tượng.

Theo Báo cáo phát triển con người (HDR) 2025 của UNDP tại Việt Nam với chủ đề “Kỷ nguyên Trí tuệ nhân tạo và lựa chọn phát triển con người,” chỉ số HDI của Việt Nam năm 2023 đạt 0,766 - xếp Việt Nam vào nhóm các quốc gia có mức phát triển con người cao - đứng thứ 93 trên tổng số 193 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Điều đáng chú ý là Việt Nam đạt được tiến triển về HDI nhưng không phải đánh đổi nhiều về bất bình đẳng. Báo cáo của UNDP cũng nhấn mạnh Việt Nam có kết quả tốt về khía cạnh bình đẳng giới.

halv-mega-3-5-.png
dong-gop-khoa-hoc.png

Trong lĩnh vực xây dựng, Việt Nam đã tự lực xây dựng Nhà máy Thủy điện Sơn La có công suất 2.400 MW lớn nhất Đông Nam Á, trong đó có thiết bị cơ khí thủy công và thiết bị nâng hạ 1.200 tấn. Việt Nam là 1 trong 3 nước ở châu Á và 1 trong 10 nước trên thế giới làm chủ thiết kế và chế tạo giàn khoan dầu khí tự nâng 90m nước, 120m nước...

Việt Nam cũng đã làm chủ công nghệ tiên tiến trong thiết kế, thi công các công trình giao thông, xây dựng có trình độ công nghệ cao, như: cầu bê tông đúc hẫng khẩu độ trên 150 m, cầu dây văng nhịp lớn, cầu Pá Uôn trụ cao gần 100 m.

Nhờ ứng dụng khoa học công nghệ, ngành công nghiệp công nghệ thông tin và viễn thông đã có sự phát triển vượt bậc, với tốc độ tăng trưởng trung bình 26,1%/năm giai đoạn 2016-2020. Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nước dẫn đầu thế giới về sản xuất công nghiệp phần cứng, điện tử-viễn thông: đứng thứ 2 về sản xuất điện thoại và linh kiện, thứ 10 thế giới về sản xuất điện tử và linh kiện.

Đáng chú ý, Việt Nam đã đưa lên quỹ đạo các vệ tinh viễn thông Vinasat1 và Vinasat2, vệ tinh viễn thám VNREDSAT và đã chế tạo thành công vệ tinh siêu nhỏ Pico, vệ tinh MicroDragon (được phóng lên quỹ đạo tháng 1/2019).

Trong lĩnh vực nông nghiệp, năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp ngày càng được cải thiện, do nhiều địa phương cũng như doanh nghiệp đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, từ khâu giống, quy trình canh tác đến chế biến và bảo quản...

Các số liệu thống kê cho thấy, khoa học công nghệ đã đóng góp hơn 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, góp phần đưa Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực, trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Các mặt hàng nông sản của Việt Nam, như: lúa gạo, hạt tiêu, hạt điều, cao su, hải sản... đã có mặt ở trên 180 quốc gia, vùng lãnh lãnh thổ.

Trong lĩnh vực y học, Việt Nam là quốc gia tự nghiên cứu, sản xuất được nhiều loại vaccine, như: vaccine phòng bại liệt, vaccine phối hợp phòng sởi-rubella, vaccine cúm mùa 3 trong 1... và mới đây là vaccine dịch tả lợn châu Phi.

Việt Nam cũng làm chủ nhiều kỹ thuật ghép tạng, đa tạng, ghép chi thể; dẫn đầu khu vực về phẫu thuật nội soi, giải trình tự gen; làm chủ quy trình phân lập, bảo quản tế bào gốc... Việt Nam cũng tự hào khi là một trong số ít các quốc gia kiểm soát, ngăn ngừa thành công nhiều dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như SARS, cúm A/H7N9...

Đặc biệt, đại dịch COVID-19 là “cú hích” mang lại nhiều thay đổi cho nền y tế Việt Nam, không chỉ trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào phòng, chống dịch (ứng dụng truy vết Bluezone, sử dụng các mạng xã hội như Facebook, Zalo… để tuyên truyền về cách thức phòng, chống dịch bệnh) mà còn triển khai phương pháp khám chữa bệnh mới - hệ thống khám chữa bệnh từ xa...

Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và internet đã làm thay đổi cách thức vận hành của cả thế giới, trong đó có Việt Nam. Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam ý thức rõ “chuyển đổi số” đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.

Do đó, cuối năm 2019, Chính phủ Việt Nam và Bộ Thông tin và Truyền thông đã xác định năm 2020 là Năm Chuyển đổi số quốc gia, là năm khởi động tiến trình hướng tới một “Việt Nam số”.

Việt Nam cũng đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực chính phủ điện tử. Theo Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử năm 2024 của Liên hợp quốc, Việt Nam vươn lên vị trí thứ 71/193 quốc gia, tăng 15 bậc so với năm 2022, đây là lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm EGDI ở mức Rất cao và vươn lên vị trí xếp hạng cao nhất kể từ khi bắt đầu tham gia đánh giá EGDI của Liên hợp quốc năm 2003. Điều này phản ánh sự cải thiện mạnh mẽ về hạ tầng công nghệ, năng lực cung cấp dịch vụ công và sự chuyển đổi số toàn diện trong bộ máy hành chính nhà nước.

Về dịch vụ công trực tuyến, trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, việc cung cấp 4.427 thủ tục hành chính trực tuyến, xử lý gần 396 triệu hồ sơ và thực hiện 61 triệu hồ sơ trực tuyến (tính đến ngày 30/12/2024) cho thấy sự phát triển vượt bậc trong việc số hóa dịch vụ công. Những cải tiến này không chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động của chính phủ mà còn giúp người dân và doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí, góp phần tăng cường sự hài lòng của Nhân dân với nền hành chính công.

Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, 5 đạo luật đánh dấu bước chuyển mình quan trọng trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của Việt Nam đã được thông qua với tỷ lệ tán thành cao. Đó là, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Luật Công nghiệp Công nghệ số; Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (sửa đổi); Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam (sửa đổi); Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi).

Các dự thảo luật này tuy được xây dựng từ cách đây 1-2 năm nhưng nội dung đã được thay đổi gần như hoàn toàn với sự tiếp thu các chủ trương, tư tưởng mới của Nghị quyết 57-NQ/TW ban hành ngày 22/12/2024. Những kết quả tích cực trong tăng trưởng doanh nghiệp, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số năm 2024 khẳng định sự đúng đắn của các chính sách phát triển kinh tế và cải cách hành chính mà Việt Nam đã triển khai.

halv-mega-3-5-.png
hoi-nhap-quoc-te.png

40 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế.

Sau quá trình gia nhập kéo dài hơn một thập kỷ (từ năm 1995 đến 2006), ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức ký Nghị định thư gia nhập WTO tại Geneva (Thụy Sĩ), đánh dấu cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đến ngày 11/1/2007, các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là thành viên WTO chính thức có hiệu lực. Đây là dấu mốc quan trọng, mở ra một chặng đường phát triển mới trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.

halv-mega-3-59-.png

Tính đến tháng 10/2024, Việt Nam đã ký kết, thực thi 17 FTA và đang đàm phán 2 FTA khác. Trong đó, các FTA thế hệ mới, bao gồm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… đã giúp Việt Nam tiếp cận sâu rộng vào các thị trường lớn, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.

Trong đó, gần đây nhất, điểm sáng của thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chính là: thúc đẩy ký kết, phê chuẩn và triển khai hiệu quả Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), thúc đẩy ký Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP); phát huy vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 thúc đẩy triển khai Cộng đồng kinh tế ASEAN và liên kết kinh tế giữa ASEAN với các đối tác…

Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, Hội đồng Kinh tế-Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018.

Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA, trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch COVID-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả, kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng. Đây chính là tiền đề quan trọng, tạo ra tiềm lực, sức mạnh, niềm tin vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong tương lai.

Vượt qua những thử thách chưa từng có tiền lệ, Việt Nam đã xây dựng một mô hình kinh tế tổng quát là phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện đại và hội nhập quốc tế; hướng tới mục tiêu phát triển, lấy con người làm trung tâm, vì một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phát triển bền vững, bao trùm và hội nhập./.

halv-mega-3-48-.png