KINH TẾ VIỆT NAM 2023: BIẾN NGUY THÀNH CƠ, TRANH THỦ VẬN HỘI MỚI
Hạnh Nguyễn•19/01/2023 09:42
Những dự báo về tình hình quốc tế và trong nước chỉ ra những cơ hội và thuận lợi, song những khó khăn sẽ nhiều hơn trong năm 2023.
Trong bối cảnh này, Quốc hội đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP của năm 2023 là 6,5% và mặc dù thấp hơn nhiều so với kết quả đạt được của năm 2022 là 8,02%, song nhìn chung các đánh giá phân tích nhận định mục tiêu này là đầy thách thức.
Nhận định về tình hình năm 2023, các chuyên gia cho biết trên bình diện quốc tế, thế giới đang trong thời kỳ nhiều biến động và thay đổi về kinh tế, địa chính trị. Lạm phát tăng lên mức cao dẫn đến xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ tại nhiều quốc gia. Kinh tế toàn cầu có xu hướng tăng trưởng chậm lại, một số quốc gia đã bắt đầu có dấu hiệu rơi vào suy thoái kinh tế.
Trong nước, Tổng cục Thống kê dự báo năm 2023, kinh tế-xã hội phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn nên chịu tác động đan xen nhiều mặt. Các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ tăng lạm phát là rất lớn, như biến động giá nguyên vật liệu đầu vào, đà phục hồi tiêu dùng trong nước, tạo áp lực lạm phát, chi phí sản xuất tăng cao, rủi ro về chuỗi cung ứng cùng với việc thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ do nhà nước quản lý, thiên tai, dịch bệnh, bão lũ, biến đổi khí hậu…
Nhận diện các yếu tố tác động đến tăng trưởng, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho biết so với các năm trước, triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2023 có thể chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố hơn, trong đó có cả thuận lợi và thách thức đan xen.
Trong nguy có cơ, theo ông Dương, tình trạng lây lan của các biến thể virus corona và các dịch bệnh mới (như đậu mùa khỉ...) được kiểm soát, điều này tạo điều kiện cho hoạt động kinh tế được liền mạch trở lại.
Hơn nữa, trong bối cảnh các nền kinh tế gia tăng cạnh tranh địa chính trị (xung đột Nga-Ucraina có thể kéo dài) sẽ nảy sinh các nhóm nền kinh tế “cùng chí hướng,” đây sẽ là cơ hội cho Việt Năm gia tăng hợp tác trên nhiều lĩnh vực (kinh tế số, kinh tế xanh, hàng nông sản, năng lượng...).
Trong nước, cộng đồng doanh nghiệp sẽ tiếp tục được hỗ trợ tích cực hơn, do tiến độ thực hiện các nhiệm vụ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội sẽ khẩn trương hơn, do năm 2023 là năm cuối cùng của chương trình nếu không có gia hạn. Tuy nhiên, ông Dương cho rằng chất lượng của chương trình sẽ phụ thuộc đáng kể vào hiệu quả các nhiệm vụ về cải cách thể chế kinh tế, nhằm sớm tạo không gian mới cho phục hồi tăng trưởng.
Về thị trường kinh doanh, việc Chính phủ mạnh dạn thử nghiệm chính sách trên các lĩnh vực đổi mới sáng tạo (fintech, xử lý tranh chấp thương mại trực tuyến, kinh tế tuần hoàn…) có thể giúp gia tăng hoạt động của khu vực tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp nhở và vừa.
“
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ phụ thuộc đáng kể vào khả năng đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu
Ông Dương cũng kỳ vọng nỗ lực duy trì ổn định kinh tế vĩ mô sẽ thành công và đây là cơ sở giúp Việt Nam có các điều kiện thuận lợi để tiếp tục cải cách cũng như thúc đẩy các biện pháp tài khóa, tiền tệ giúp phục hồi tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, ông Dương cũng thận trọng khi cho rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ phụ thuộc đáng kể vào khả năng đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, gắn với tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) và xử lý các rủi ro gắn với đối đầu thương mại-công nghệ giữa các siêu cường, xu hướng giảm giá của các đồng tiền ở khu vực so với USD...
Trên cơ sở đó, báo cáo “Kinh tế Việt Nam năm 2022, triển vọng 2023” của CIEM đưa ra 2 kịch bản cập nhật dự báo kinh tế Việt Nam. Theo kịch bản 1, tăng trưởng kinh tế năm 2023 có thể đạt mức 6,47%, xuất khẩu cả năm dự báo tăng 7,21%, thặng dư thương mại ở mức 5,64 tỷ USD, lạm phát bình quân năm 4,08%. Với kịch bản 2, các chỉ tiêu dự báo như trên lần lượt tăng 6,83%, tăng 8,43%, đạt 8,15 tỷ USD và ở mức 3,69%.
Trước đó, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng năm 2023 của Việt Nam chỉ đạt 6,3% do các đối tác thương mại lớn suy yếu. Tương tự, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ giảm xuống mức 6,2% trong năm nay.
Báo cáo kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định hai động lực tăng trưởng của Việt Nam là xuất khẩu và nhu cầu trong nước đều đang chững lại, do nhu cầu bên ngoài yếu đi và tiêu dùng hậu COVID-19 phục hồi chậm lại. Thêm vào đó, điều kiện huy động tài chính bị thắt chặt hơn và lạm phát gia tăng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu trong nước trong thời gian tới.
“
Thủ tướng khẳng định Việt Nam cần tranh thủ thời cơ và vận hội, biến nguy thành cơ đồng thời giải quyết những vấn đề khó khăn, bất cập, tồn đọng kéo dài
Trên tinh thần Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái nhấn mạnh công tác điều hành sẽ tập trung vào 6 nhiệm vụ trọng tâm.
Thứ nhất là công tác chỉ đạo, điều hành phải bám sát Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các Nghị quyết chuyên đề, các Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ; tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, các nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2030, Kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021-2025.
Hai là tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, nhưng cũng không hoang mang, dao động; luôn bình tĩnh, tự tin, bản lĩnh, chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, không chuyển trạng thái đột ngột, điều hành "giật cục."
Ba là nâng cao năng lực phân tích, dự báo, từ đó chủ động xây dựng các kịch bản, phương án thích ứng hiệu quả. Chính sách tiền tệ thực hiện chắc chắn, chủ động, linh hoạt, hiệu quả, có phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng và các chính sách khác. Công tác điều hành kịp thời, cân bằng, hợp lý, hiệu quả giữa tỷ giá với lãi suất, giữa lãi suất với lạm phát; giữa kiềm chế lạm phát với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Bốn là đồng bộ, thống nhất và quyết tâm, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, vừa tập trung xử lý hiệu quả các nhiệm vụ thường xuyên, các vấn đề tồn đọng kéo dài, vừa kịp thời ứng phó hiệu quả với những vấn đề cấp bách trong ngắn hạn. Song, bên cạnh đó là thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp mang tính căn cơ trong trung và dài hạn. Thể chế cần tăng cường hoàn thiện, trong đó tập trung tháo gỡ khó khăn đồng thời có các giải pháp chính sách hỗ trợ kịp thời, hiệu quả cho sản xuất kinh doanh.
Năm là phát triển văn hóa ngang tầm với kinh tế, chính trị, xã hội. Các chính sách an sinh xã hội tiếp tục thực hiện tốt, như giảm nghèo bền vững, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm môi trường bền vững, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói chung, nhất là người có công, hộ nghèo, các đối tượng yếu thế ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và đồng bào dân tộc.
Sáu là tiếp tục củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế; đảm bảo môi trường ổn định, hòa bình, hợp tác để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững.
Trên quan điểm chỉ đạo của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết cơ quan này đã trình Chính phủ dự thảo Nghị quyết một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2025, bao gồm nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện ngay trong ngắn hạn và nhóm giải pháp trong dài hạn.
“
Chính phủ sẽ tập trung giải quyết các điểm nghẽn, bất cập làm cản trở doanh nghiệp phát triển, cởi trói, giải phóng tiềm lực của các doanh nghiệp khu vực tư nhân
Để hỗ trợ doanh nghiệp có thể vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, Chính phủ sẽ tập trung giải quyết các điểm nghẽn, bất cập làm cản trở doanh nghiệp phát triển, cởi trói, giải phóng tiềm lực của các doanh nghiệp khu vực tư nhân đồng thời đổi mới các chính sách, chương trình hỗ trợ để đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và thị trường.
Trong số đó, Chính phủ tập trung giải quyết những vấn đề cốt lõi như cải cách hành chính, xây dựng chính phủ-chính quyền điện tử, liên thông các thủ tục giữa các bộ ban ngành để giúp doanh nghiệp, người dân giảm thiểu thời gian, công sức, chi phí.
Các giải pháp phù hợp hỗ trợ đủ vốn tín dụng cho nền kinh tế sẽ tập trung vào sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho thương nhân nhập khẩu xăng dầu và than, góp phần tháo gỡ khó khăn, bảo đảm an ninh năng lượng.
Mặt khác, những khó khăn trong ngắn hạn liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp sẽ được xử lý kịp thời cùng với các biện pháp thúc đẩy thị trường phát triển lành mạnh, hiệu quả, bền vững trong trung và dài hạn, từ đó đề xuất giải pháp xử lý chủ động, phù hợp, hiệu quả với diễn biến tình hình thực tế.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng cho hay những khó khăn đối với các dự án phát triển bất động sản, nhất là nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cho người có thu nhập thấp sẽ được tháo gỡ và các thông tin về biến động cũng như xu hướng của các thị trường xuất/nhập khẩu lớn sẽ được cập nhật, cung cấp thường kỳ có kèm theo các đánh giá về cơ hội, thách thức để doanh nghiệp có các kế hoạch thích ứng phù hợp.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm tới, nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước sẽ được chú trọng đảm bảo, trong đó điều hành giá xăng phù hợp với tình hình thực tiễn, công khai, minh bạch, hiệu quả, hài hòa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Thêm vào đó, các hoạt động xúc tiến thương mại sẽ được đổi mới, phát triển thị trường theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số, từ đó tăng cường công tác thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp về thị trường, mặt hàng xuất khẩu.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy ngành công nghiệp của Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào các yếu tố bên ngoài.
Về điều này, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng thẳng thắn nhìn nhận trong cơ cấu giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, giá trị gia tăng từ các yếu tố bên ngoài vẫn chiếm tỷ lệ lớn, trong khi tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa còn thấp, chưa có nhiều chuyển dịch đáng kể.
Theo vị tư lệnh ngành, kinh nghiệm của nhiều quốc gia thực hiện công nghiệp hóa thành công đều có vai trò của hệ thống doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp quy mô lớn được coi là những “doanh nghiệp đầu tàu” hay “sếu đầu đàn” để tạo ra hệ sinh thái dẫn dắt sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi sản xuất.
Trong bối cảnh hiện nay, Bộ Trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng Việt Nam cần xác định được các doanh nghiệp có đủ bản lĩnh trở thành “sếu đầu đàn” trên cơ sở đánh giá nội lực của doanh nghiệp và nguyên tắc thị trường, tránh việc sử dụng mệnh lệnh hành chính hay lắp ráp một cách cơ học.
“
Những “con sếu đầu đàn” phải có khả năng chiếm lĩnh thị trường
Cụ thể, các doanh nghiệp quy mô lớn cần có tiềm lực về tài chính, hoạt động hiệu quả dựa trên năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và tăng khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế. Bên cạnh đó, những “con sếu đầu đàn” phải có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước và có định hướng mở rộng sang thị trường nước ngoài (thông qua hoạt động xuất khẩu hoặc đầu tư ra nước ngoài) và có hệ thống quản trị chuyên nghiệp, hiện đại.
Đối với “sếu đầu đàn” là các doanh nghiệp Nhà nước, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chỉ ra cần phải thay đổi cách nhìn và phương thức quản lý.
“Đã có quan điểm cho rằng quản lý doanh nghiệp Nhà nước hiện đang nặng về kiểm soát, khiến doanh nghiệp không được quyền tự chủ để đối phó với những thay đổi trong phương thức sản xuất. Do vậy, cần tập trung vào việc xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách theo hướng đổi mới quản lý của cơ quan đại diện chủ sở hữu, để doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường,” Bộ trưởng nói.
“
Quản lý doanh nghiệp Nhà nước hiện đang nặng về kiểm soát, khiến doanh nghiệp không được quyền tự chủ để đối phó với những thay đổi trong phương thức sản xuất.
Về “sếu đầu đàn” là doanh nghiệp tư nhân, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng cần tập trung vào giải quyết các điểm nghẽn, bất cập làm cản trở doanh nghiệp phát triển, như cải cách hành chính, xây dựng chính phủ - chính quyền điện tử. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp triển khai kịp thời những kế hoạch, chương trình kinh doanh, bắt nhịp được những yêu cầu của thị trường mà không bị cản trở bởi độ trễ của thủ tục.
Bà Nguyễn Thị Luyến, Phó Trưởng ban Nghiên cứu cải cách phát triển Doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng để kinh tế tư nhân phát triển bền vững thì Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư tư nhân, thúc đẩy các chủ thể kinh tế tư nhân hình thành và phát triển. Theo đó, thể chế chính sách cần sớm hoàn thiện, giúp khu vực kinh tế tư nhân thích ứng và tận dụng được các cơ hội từ hội nhập quốc tế; cải cách thể chế phát triển kinh tế tư nhân gắn với Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và kinh tế số.
“Trong số đó, quản lý nhà nước cần chú trọng đổi mới nhằm nâng cao hiệu lực quản lý đối với khu vực kinh tế tư nhân,” bà Luyến nói.
Cụ thể, tiến sỹ Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, nhấn mạnh để phát triển khu vực tư nhân, Việt Nam cần tạo dựng một thể chế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập. “Việt Nam cần tiếp tục thực hiện cải cách thể chế nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực và cả thúc đẩy sáng tạo (cải cách cơ cấu thích ứng với các xu thế phát triển mới, sự dịch chuyển các chuỗi cung ứng/chuỗi giá trị toàn cầu cũng như cam kết trong các FTA (CPTPP, EVFTA, RCEP.),” ông Thành nói.
Cũng theo ông Thành, Việt Nam cần tạo dựng các tập đoàn lớn mạnh đúng nghĩa, đó là doanh nghiệp lớn không chỉ là có vốn nhiều mà phải có chất, tức là phải làm chủ công nghệ, đổi mới sáng tạo và có thương hiệu trên thị trường quốc tế, có tính lan tỏa, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp khác phát triển.
Về vấn đề này, Tư lệnh ngành Kế hoạch và Đầu tư chỉ ra trong thời gian tới cần tập trung vào các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao giúp tạo ra sức bật nhanh, mang lại lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế. Theo đó, cơ chế chính sách sẽ được hoàn thiện, tạo thuận lợi cho việc tập trung kinh tế thông qua các hoạt động mua bán, sáp nhập (M&A); trong đó kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp tư nhân sẽ tiếp tục phát triển và đa dạng hóa đồng thời đẩy mạnh mô hình hợp tác công-tư.
“Chính vì vậy, cần thiết nghiên cứu và xây dựng những mô hình hợp tác giữa nhà nước và tư nhân để hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của khu vực doanh nghiệp. Đây là mô hình hợp tác đã được triển khai theo nhiều hình thức khác nhau ở nhiều quốc gia trên thế giới (như Mỹ, Đức, Nhật Bản…),” Bộ Trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh./.
Bình luận của bạn đã được gửi và sẽ hiển thị sau khi được duyệt bởi ban biên tập.
Ban biên tập giữ quyền biên tập nội dung bình luận để phù hợp với qui định nội dung của Báo.