Phong tục đón Tết của người Việt xưa diễn ra bình dị, vui vẻ, hòa đồng, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Mang ý nghĩa là sự khởi đầu của một giai đoạn gieo trồng mới, một tháng mới, mùa mới, Năm mới, cho nên Tết có ý nghĩa rất lớn trong đời sống của người Việt.
Với mỗi người Việt, Tết là dịp tụ họp, đoàn viên gia đình. Con cháu đi làm ăn xa, dù bận đến mấy cũng cố gắng về ăn Tết với gia đình. Mọi người ai nấy đều cố hoàn thành công việc, giải quyết công nợ xong hết trước Tết, để có thể đón một năm mới thanh thản, an vui.
Phong tục đón Tết của người Việt xưa diễn ra bình dị, vui vẻ, hòa đồng, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Tết của người Việt là sự giao hòa giữa ước mơ và hiện thực. Tết không chỉ có vật chất, ăn uống, trang hoàng nhà cửa… Tết còn là nét đẹp trong văn hóa tâm linh, nhớ về ông bà, tổ tiên, mọi người hướng về sự đầm ấm, thiêng liêng tình cảm gia đình, dòng tộc, tình làng nghĩa xóm.
Đối với người Việt Nam, nói là ăn Tết ba ngày, nhưng để có 3 ngày Tết đó, phải chuẩn gần như cả năm.
Đầu tiên là nuôi lợn, ngày ấy không có giống lợn lai và thức ăn tăng trọng, mà toàn là giống lợn quê cho ăn cám nấu cây chuối dọc khoai hay bèo tấm. Sức lớn mỗi tháng chỉ 4-6kg. Nên để đạt trọng lượng 50-60kg thịt cho ngày Tết, phải nuôi từ đầu năm.
Đối với những nhà có điều kiện gói bánh chưng thì cũng ngay từ đầu tháng chạp đã lo mua gạo nếp, đậu xanh... để sẵn. Thậm chí đến những chiếc lá để gói bánh như lá dong, những chiếc lạt để buộc bánh chưng, bánh giò cũng phải lo liệu trước, không đợi cận Tết mới sắm. Họ lo như thế nào? Những nhà có vườn cây, quanh năm góp nhặt những tàu lá rụng, cắt lấy mà tước mỏng, quấn lại lên bếp để Tết mà gói giò.
Cứ rằm tháng Chạp thì nhà nào cũng làm dưa hành. Hành củ to tròn, mua về ngâm nước gio bếp 5 ngày, rồi bóc vỏ cắt rễ trộn muối hai ngày sau thì đổ nước ngâm, mất 7-8 ngày nữa củ hành mới hết cay chuyển thành dưa chua dôn dốt. Không phải món chính, nhưng trên mâm cỗ ngày Tết không thể thiếu món này, nên ngày xưa nó được xếp vào 6 loại phẩm vật đặc trưng của Tết: "Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh/Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ."
Không khí Tết bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, cúng ông Công ông Táo lên chầu Trời. Ngày 24 trở đi đã rộn rã lắm rồi, trẻ con mua pháo lẻ ở chợ về đốt chơi đì đùng ở sân đình. Người lớn lau dọn bàn thờ tổ tiên, đi tạ quan thần linh ở những nơi đặt phần mộ ông bà cụ kỵ; tổng vệ sinh nhà cửa, ngõ xóm...
Từ 27 đến 30 tháng Chạp, nhà nhà lo mổ lợn, gói bánh chưng, bánh tẻ, quấy chè lam, nấu kẹo lạc, làm bỏng mụn.
Chỉ trừ số ít gia đình quan lại và dân phố phường, thành thị là ăn Tết có cao lương mĩ vị đắt tiền, còn đại đa số người dân, sống bằng nghề làm ruộng ở nông thôn, lấy bánh chưng thịt lợn làm cơ bản để cúng và ăn Tết.
Thường là mỗi nhà mổ một con lợn, nhà ít người hoặc nghèo thì chung nhau hai nhà một con, nhà quá ít người hoặc quá nghèo thì ăn đụng một đùi hoặc nửa đùi.
Suốt ngày 28 đến 30 tháng Chạp tiếng lợn kêu eng éc khắp làng xóm, các bến nước hai bên bờ sông kẻ lên người xuống dập dìu, chỗ này cọ lá dong, chỗ kia làm lòng lợn.
Quanh năm bận rộn, bữa ăn đơn giản vài ba món, toàn là rau dưa, cà kiệu, cá tôm, cua lươn, ốc ếch. Tết đến mổ con lợn ra mới có điều kiện bày vẽ trước cúng sau ăn. Cái sỏ thường dùng gói giò gọi là giò thủ, đôi thăn giã nhuyễn gói giò lụa, cũng có nhà gói cả giò mỡ. Chả rán thì dùng thịt nạc giã nhuyễn nặn như chiếc đĩa, chả nướng thì thái miếng ướp hành nước mắm, cũng ướp cả riềng mẻ nữa, vót tre làm xiên mỗi xiên 7-8 miếng.
Những khổ thịt ba chỉ hay nửa nạc nửa mỡ luộc qua cho cứng lại rồi thái thỏi bề ngang vài ngón tay, đem áp chảo. Sườn thì chặt quân cờ cặp gắp nướng chả vè hoặc tút xương làm chả chìa. Xương để hầm măng khô. Món nem thính gói lá ổi cũng nhiều nhà làm, vì có nó hương vị Tết mới đậm đà.
Bánh chưng là món ăn ngon, hạt gạo tự mình làm ra chẳng cần đong đếm song ngặt một nỗi là chiếc nồi đồng luộc được ba bốn chục bơ gạo bánh, trong làng chỉ có năm bảy nhà giàu sắm được. Vì vậy phải mượn chuyền tay nhau, phải dạm trước với nhà chủ để còn sắp xếp. Có nhà luộc bánh từ sáng ngày 27, nhà mượn cuối cùng là chiều 30, tính đếm sao cho kịp trả nồi trước lúc gia chủ thắp hương đón giao thừa, tiếng pháo nổ rền mừng năm mới.
Ngoài ba ngày Tết, ăn uống còn kéo dài thêm nhiều ngày nữa. Nào là anh em họ mạc bạn bè ở xa đi du Xuân rẽ vào chơi dùng bữa. Nào là con cháu rong ruổi với các trò vui đánh đu, đánh đáo, kéo co, chọi gà, đánh vật, đánh cờ, lúc đói bụng lại đáo về lục lọi thức ăn. Tục là như thế: “Tháng giêng là tháng ăn chơi.” Ăn chơi cho bõ cả mùa đông lăn lộn ngoài đồng hai sương một nắng. Ăn chơi, vì mọi việc đồng áng đã xong.
Khâu chuẩn bị cuối cùng là món tiền lẻ để phát vốn cho trẻ con. Trước tiên là sáng mùng Một phát vốn cho con cháu trong nhà, sau đó bất cứ đứa trẻ nào đến chơi cũng được phát vốn. Trường hợp có bổn phận phải đến chúc Tết các bậc vai vế bề trên, thì cũng cần mang theo tiền lẻ để phát vốn cho trẻ nhỏ.
Chiều 30 Tết, nhà nào cũng cắm một cây nêu ở giữa sân, dùng cây tre nhỏ hay cây nứa còn bánh tẻ để nguyên ngọn cong vút như cần câu, buộc lá cờ đuôi nheo xanh đỏ hoặc túm lá dứa dại làm tín hiệu chào đón ông bà ông vải về ăn Tết, và để ngăn trừ ma quỷ. Xem ra công việc chuẩn bị cho Tết rất nhiều và vất vả. Nhưng cũng lạ là không ai kêu ca, mà trẻ già trai gái ai nấy đều vui mừng háo hức.
Sửa soạn cho Tết để đón chào Năm mới, không phải chỉ lo các thứ như mọi ngày mà còn sắm sửa cho những mối ân tình, những quan hệ thâm sâu.
Đúng 0h, mọi người thắp đèn hương cúng ông bà, ông vải, người thân đã khuất…, chào đón Xuân sang.
Theo tục xông đất, người Việt quan niệm nếu ngày mùng 1 Tết, mọi việc diễn ra suôn sẽ thì may mắn quanh năm. Khách đầu tiên đến thăm nhà trong năm mới vì thế rất quan trọng.
Cứ vào dịp cuối năm, mọi nhà lại cố ý tìm trong gia đình, họ hàng những người có tính tình vui vẻ, hoạt bát, nhanh nhẹn, đạo đức tốt, nhờ đến xông đất đầu năm. Người đến xông đất thường chỉ đến nhà 5-10 phút chứ không ở lại lâu, với mong muốn cầu cho mọi việc trong năm được trôi chảy.
Trong 3 ngày Tết, phụ nữ có thể đi lễ ở đình, chùa, đàn ông đánh tổ tôm, chơi cờ, làng tổ chức các trò chơi dân gian. Đến chiều ngày mùng 3 Tết, gia đình làm lễ tiễn tổ tiên.
Ngày mùng 1, mùng 2, người dân kiêng sát sinh, không động thổ quét tước để màu sắc Tết không bị mất đi quá sớm.
Trong những ngày Tết, mọi người kiêng nói những điều không hay, không đánh nhau, cãi nhau trong dịp Tết, xóa bỏ mọi hận thù, xích mích.
Người nghèo được bà con họ hàng tạo điều kiện để cùng ăn Tết; người hành khất chỉ cần đứng trước cửa nói vài câu may mắn sẽ được gia chủ mang bánh chưng, thịt, giò ra cho. Người Việt thường quan niệm: “Khó đói chẳng lo 3 ngày Tết / Giàu sang rộng mở tấm lòng thương.”
Đến ngày mùng 7 Tết, mọi gia đình sẽ làm lễ hạ nêu, Tết Nguyên đán kết thúc. Người ta lại tụ tập gặp nhau ở những chốn linh thiêng như đình, chùa, miếu, mạo, nơi tổ chức những cuộc vui xuân, xách nước, hát chèo tuồng, thổi cơm thi.
Con cháu khi đã ra ở riêng, dù xa xôi cách trở, cũng tìm về lo liệu biếu Tết cho ông, bà, cha mẹ nhiều ít tùy hoàn cảnh sinh sống. Nếu dư dả thì của ngon vật lạ, nếu nghèo túng thì cũng phải có thứ gì nhỏ làm quà. Nếu ông bà, cha mẹ sống cảnh giàu sang có khi con cháu đưa đến một cành đào, hai chậu cúc, hay vài củ thủy tiên có khi chỉ có một cối pháo cũng đủ làm cho đấng sinh thành hài lòng. Ngoài bổn phận con cháu, còn bổn phận học trò. Dù bây giờ có trở thành ông nghè, ông cống bia đá có đề tên thì ông học trò cũng phải nhớ về thăm thầy cũ./.
Bình luận của bạn đã được gửi và sẽ hiển thị sau khi được duyệt bởi ban biên tập.
Ban biên tập giữ quyền biên tập nội dung bình luận để phù hợp với qui định nội dung của Báo.