Trong công tác chăm sóc sức khỏe, ngành dược có tầm quan trọng đối với an sinh xã hội, sự ổn định của đời sống xã hội và mỗi người dân, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh.
Trước đây, thị trường thuốc ở Việt Nam về cơ bản đảm bảo nguồn cung. Tuy nhiên, hiện nay, trước tác động của đại dịch COVID-19, một số thuốc không có nguồn cung thay thế hoặc nguồn cung hạn chế. Do ảnh hưởng của nguồn nguyên liệu đã làm “đứt gãy" nguồn cung dẫn tới tình trạng thiếu thuốc.
Vì vậy, theo các chuyên gia, thời gian qua, tình trạng thiếu trang thiết bị y tế, thiếu thuốc diễn ra nhiều nơi, điều này đòi hỏi phải cơ cấu lại nền công nghiệp dược, làm sao để sản xuất trong nước vững chắc, mạnh mẽ và nâng cao năng lực cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam hiện thuộc nhóm quốc gia có tổng giá trị thị trường dược phẩm với mức tăng trưởng nhanh trên thế giới. Tổng giá trị thị trường dược phẩm tại Việt Nam đạt 2,7 tỷ USD trong năm 2015, tăng lên 5,1 tỷ USD năm 2018 và năm 2020 đạt 6,1 tỷ USD. Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ngành công nghiệp dược Việt Nam ở cấp độ 3 (cấp có ngành công nghiệp dược nội địa, có sản xuất thuốc generic, xuất khẩu được một số dược phẩm).
Quyết định 376/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chương trình phát triển công nghiệp dược, dược liệu sản xuất trong nước giai đoạn 2030-2045, đặt mục tiêu đến năm 2025 thuốc sản xuất trong nước đạt 75% số lượng sử dụng và 60% giá trị thị trường, tỷ lệ sử dụng dược liệu nguồn gốc trong nước, thuốc dược liệu tăng thêm ít nhất 10% so với năm 2020. Mục tiêu đến năm 2030, thuốc sản xuất trong nước đạt 80% số lượng sử dụng và 70% giá trị thị trường đồng thời, chuyển giao công nghệ sản xuất ít nhất 100 thuốc phát minh còn bản quyền, vaccine, sinh phẩm y tế và thuốc mà Việt Nam chưa sản xuất được. Những mục tiêu đó nhằm phấn đấu đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất dược phẩm giá trị cao trong khu vực, phấn đấu giá trị xuất khẩu thuốc sản xuất trong nước đạt khoảng 1 tỷ USD.
Mục tiêu đến năm 2025 thuốc sản xuất trong nước đạt 75% số lượng sử dụng và 60% giá trị thị trường, tỷ lệ sử dụng dược liệu nguồn gốc trong nước, thuốc dược liệu tăng thêm ít nhất 10% so với năm 2020.
Tại Diễn đàn đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực y tế, các đại biểu ở nhiều điểm cầu trên thế giới đã đưa ra giải pháp, các xu hướng, các nghiên cứu tiên tiến cũng như những ứng dụng khoa học đang được áp dụng để nâng tầm hệ thống y tế, trong đó có lĩnh vực dược phẩm, phát minh bệnh án điện tử, khám, chữa bệnh từ xa.
Rất tâm huyết về vấn đề này, Giáo sư Adil Mardinoğlu của Đại học King’s College London và Học viện Công nghệ Hoàng gia tại Thụy Điển chia sẻ kinh nghiệm chính phủ Thụy Điển muốn đẩy mạnh việc nghiên cứu những phát minh về thuốc và đã thành công với việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và tập trung những nhóm nghiên cứu lại, tạo sự phát triển đa ngành.
Theo Giáo sư Adil Mardinoğlu, việc này giúp Thụy Điển tiết kiệm và giảm thiểu rủi ro, khi các nhóm cùng chia sẻ hạ tầng, kết nối. Để phát triển một loại thuốc, thay vì phải phát triển 10 nền tảng, họ chỉ cần một. Có thiết bị, nếu 10 trường cùng mua sẽ lãng phí, khi tập trung lại thì chỉ cần 1 máy là tất cả cùng sử dụng.
Với câu hỏi y tế “Việt Nam có thể tham gia vào chuỗi giá trị này?” các đại biểu cho rằng Việt Nam cần có các trung tâm nghiên cứu, chuyên gia và chuyển giao công nghệ giữa các cơ sở nghiên cứu và doanh nghiệp tư nhân; cần tạo môi trường thu hút những chuyên gia hàng đầu của thế giới đến làm việc trong lĩnh vực y tế nói chung và dược phẩm nói riêng.
Trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp dược của Việt Nam đặt ra mục tiêu sản xuất được 80% thuốc trong nước thì việc đổi mới sáng tạo trong y tế chính là những điều kiện để Việt Nam trở thành trung tâm của khu vực trong chuỗi cung ứng.
Phó giáo sư Lê Văn Truyền - Chuyên gia cao cấp dược học
Phó giáo sư Lê Văn Truyền - Chuyên gia cao cấp dược học, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, cho rằng kinh nghiệm của Thụy Điển là điều Việt Nam rất cần học tập. Bởi trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp dược của Việt Nam đặt ra mục tiêu sản xuất được 80% thuốc trong nước thì việc đổi mới sáng tạo trong y tế chính là những điều kiện để Việt Nam trở thành trung tâm của khu vực trong chuỗi cung ứng. Vì hiện nay Việt Nam có nhiều “điểm yếu” cần có sự khắc phục để “khơi thông" những tiềm năng phát triển dược liệu, thuốc và toàn ngành y tế nói chung.
Là một đơn vị với vai trò đào tạo, Phó giáo sư Phạm Văn Linh - Hiệu trưởng Trường Đại Học Y Dược Hải Phòng cho hay trong xu hướng chung, nhà trường đang đẩy mạnh việc nghiên cứu phát triển thuốc, dược phẩm cũng có hướng tới thành lập những nhóm nghiên cứu mạnh. Trước mắt tại Trường Đại học Y dược Hải Phòng hướng tới thành lập 3 nhóm nghiên cứu: y khoa-liên ngành, nhóm nghiên cứu về dược và 1 nhóm nghiên cứu về y tế công cộng.
Nhóm nghiên cứu khoa dược phát triển thuốc, tiến hành các thử nghiệm lâm sàng tương đương sinh học. Trường có một số điểm mạnh liên quan đến nguồn nhân lực là các cán bộ trẻ được đào tạo bài bản ở các nước phát triển. Họ có sự nhiệt tình, nhiệt huyết và đầy trách nhiệm.
“Hạn chế là cán bộ còn ít kinh nghiệm, đặc biệt là trong nghiên cứu phát triển về thuốc, định hướng này có thể hướng tới 1 số giải pháp liên quan đến tăng kết nối, gắn kết, cơ hội tiếp xúc, học tập trong nghiên cứu phát triển thuốc mới các đối tác nghiên cứu,” Hiệu trưởng Trường Đại Học Y Dược Hải Phòng nhấn mạnh.
Về giải pháp để phát triển lâu dài, Phó giáo sư Lê Văn Truyền cho biết đại dịch COVID-19 khiến tất cả các nước nhìn ra những mâu thuẫn trong quá trình cung cấp thuốc. Việc đứt gãy nguồn cung làm cho việc chăm sóc sức khỏe nhân dân gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là tình trạng thiếu thuốc. Bài toán này với Việt Nam khá lớn, đòi hỏi phải cơ cấu lại nền công nghiệp dược, làm sao để sản xuất trong nước vững chắc và có sức cạnh tranh mạnh mẽ, giảm việc phụ thuộc vào nước ngoài.
Đại dịch COVID-19 khiến tất cả các nước nhìn ra những mâu thuẫn trong quá trình cung cấp thuốc. Việc đứt gãy nguồn cung làm cho việc chăm sóc sức khỏe nhân dân gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là tình trạng thiếu thuốc.
Phó giáo sư Lê Văn Truyền
“Bởi thực tế cho thấy nước nào có tiềm lực về nhân lực, chính sách tốt thì có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu với việc nâng cao năng lực sản xuất, khả năng cung cấp thuốc cho dân đồng thời xuất khẩu, trở thành trung tâm của khu vực. Tuy nhiên, điểm yếu của Việt Nam hiện là cơ sở vật chất cũng như nguồn nhân lực rất phân tán. Các ngành hỗ trợ doanh nghiệp dược như dầu khí, công nghiệp hóa chất, hay ngành nông nghiệp chưa kết nối được với ngành dược để phát triển dược liệu,” Phó giáo sư Lê Văn Truyền phân tích.
Hiện nay, Việt Nam muốn đổi mới và đưa thành tựu y tế nổi bật của quốc tế vào Việt Nam, theo ông Truyền việc đầu tiên cần giải quyết chính là thể chế, vì nếu không có thể chế phù hợp thì công nghiệp dược Việt Nam rất ít cơ hội tiếp cận với những đổi mới và sáng tạo trên thế giới. Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên.
Ông Truyền chỉ rõ: Hiện nay Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA) đã công bố hướng dẫn về trong nghiên cứu hồ sơ đăng ký thuốc, vậy về bộ hồ sơ đăng ký thuốc về bộ y tế có chấp nhận phương thức nghiên cứu đó hay không? Nếu Việt Nam không cải cách thể chế để tiếp cận các thể chế về phát triển nghiên cứu dược phẩm, nếu không có thể chế tương đồng thì đây sẽ chính là rào cản lớn nhất để Việt Nam khó tiếp cận với những thành tựu mới sáng tạo trên thế giới. Vì vậy, vấn đề cải cách thể chế là vấn đề phải làm trước để tạo môi trường lành mạnh, hợp lý, thân thiện nhằm tiếp nhận đổi mới và sáng tạo trên thế giới.
“Tôi thích thú báo cáo của giáo sư Thụy Điển, Việt Nam hiện đang nghèo nhưng tất cả các cơ sở nghiên cứu đều muốn được trang bị những thiết bị đắt tiền. Khi Chính phủ đã đầu tư, cho các viện nghiên cứu các thiết bị đó thì dùng không hết công suất. Một nước giàu như Thụy Điển họ quyết định không đầu tư dàn trải mà phải đầu tư tập trung, sử dụng tập trung để nâng cao hiệu quả. Và đây chính là “bí quyết" mà Việt Nam cần học hỏi,” ông Truyền thẳng thắn.
Thực tế, mấy năm qua và cho đến nay, Việt Nam đang triển khai nghiên cứu thử nghiệm 4 loại vaccine phòng COVID-19 nhưng đến nãy vẫn chưa có 1 loại vaccine nào sản xuất trong nước được đăng ký.
“Trong thời kỳ COVID-19 vừa qua, tôi là Chủ tịch Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc nhưng khá buồn bởi Việt Nam có rất nhiều viện nghiên cứu nhưng không tập trung lực lượng được để làm ra được 1 loại vaccine hay ít nhất 1 kit xét nghiệm chuẩn. Đây là minh chứng rõ nhất cho thấy sự đầu tư phân tán, thiếu sự phối hợp, kết hợp giữa các đơn vị đầu tư nghiên cứu, dưới sự chủ trì của cơ quan quản lý nhà nước không huy động được lực lượng. Đây chính là rào cản thứ hai mà chúng ta cần phải khắc phục,” Phó giáo sư Lê Văn Truyền phân tích.
Vấn đề thứ ba, theo ông Truyền Việt Nam cần khắc phục là về nhân lực. Nguồn nhân lực phục vụ cho ngành công nghiệp dược được đào tạo không phải là ít, ngay từ thế hệ xã hội chủ nghĩa, sau này có nhiều nhân lực được đào tạo tại các đơn vị một nhưng khi về làm việc thì từng đơn vị một, chuyên gia thiếu các chương trình tập trung. Do đó, nếu muốn có một bước phát triển mới, tiếp thu các sáng tạo đổi mới thì vấn đề tổ chức nghiên cứu, tập hợp lực lượng, điều hành nhân sự là các nhà khoa học thì cần phải có cơ chế thích hợp nếu không sẽ phân tán, không tập trung được lực lượng, và tài chính.”
Trước đây, thị trường thuốc đảm bảo nguồn cung dồi dào. Tuy nhiên, hiện nay, trước tác động của đại dịch COVID-19, một số thuốc không có nguồn cung thay thế hoặc nguồn cung hạn chế. Do vậy, việc xây dựng những chính sách và chiến lược để phát triển ngành công nghiệp dược là cần thiết để đáp ứng công tác khám, chữa bệnh của nhân dân.
Để khắc phục các hạn chế đang tồn tại liên quan tới công tác đầu tư, chuyển giao công nghệ sản xuất dược phẩm theo ông Tạ Mạnh Hùng - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế), thời gian tới Bộ Y tế sẽ định hướng các loại hình sản phẩm ưu tiên phát triển sản xuất trong nước cần có sự đầu tư về khoa học công nghệ như các dược liệu ưu tiên phát triển, các nguyên liệu hóa dược có khả năng cạnh tranh, các dạng bào chế tiên tiến hiện đại. Bộ Y tế cũng sẽ đẩy mạnh cải cách thủ tục liên quan đến công tác đăng ký thuốc, thử nghiệm lâm sàng, đánh giá tương đương sinh học của thuốc, công tác quản lý chất lượng thuốc, đấu tranh chống hàng giả, hàng lậu, không rõ nguồn gốc.
Bên cạnh đó, nghiên cứu, đề xuất các chính sách ưu đãi cho khu công nghiệp dược/cơ sở sản xuất thuốc, vaccine, trong đó có việc chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc gốc, vaccine sử dụng công nghệ cao, đáp ứng nhu cầu phòngchữa bệnh. Bộ Y tế cũng trình Chính phủ xem xét, sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến các chính sách ưu đãi. Xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển sản phẩm chất lượng cao, sử dụng công nghệ cao để tăng cường khả năng cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu cùng loại và kêu gọi doanh nghiệp đầu tư theo hướng này.
Đẩy mạnh tin học hóa công tác quản lý dược. Đặc biệt là sửa đổi, bổ sung Luật Dược và các văn bản hướng dẫn nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thông thoáng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh thuốc, vaccine, sinh phẩm; Thu hút đầu tư nước ngoài/chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc, vaccine, sinh phẩm từ các nước có ngành dược tiên tiến; Tiếp tục làm việc với các địa phương để triển khai xây dựng các đề án Khu công nghiệp.
Về phía Bộ Khoa học và Công nghệ, ông Phạm Hồng Quất - Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học công nghệ cho rằng, chính sách khuyến khích, ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước nhận chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc phát minh (theo sáng chế đã được cấp bằng độc quyền) đã có quy định nhưng cần được triển khai trong thực tế.
Đặc biệt, cần có hướng dẫn cụ thể về điều kiện đối với doanh nghiệp được tiếp nhận chuyển giao công nghệ và điều kiện được hưởng các ưu đãi để thực sự “hấp dẫn các doanh nghiệp chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc phát minh tại Việt Nam” như mục tiêu ghi trong Quyết định số 376/QĐTTg.
Báo cáo cụ thể về thành quả nghiên cứu khoa học y tế của Bộ Y tế cho thấy, từ 2015 đến nay, trong nước đã thực hiện 460 nhiệm vụ nghiên cứu phát triển thuốc mới, nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng thuốc và vaccine, đặc biệt thuốc mới chiếm tỷ lệ cao nhất. Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng tại Việt Nam góp phần tạo cơ hội cho người bệnh tiếp cận thuốc, phương pháp điều trị mới.
Các công nghệ trong và ngoài lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, đặc biệt trong lĩnh vực dược phẩm phát minh và vaccine đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng mang lại nhiều giá trị cho xã hội.
Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe đang phải trải qua quá trình chuyển đổi là một thực tế không thể phủ nhận trong tình hình mới. Các công nghệ trong và ngoài lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, đặc biệt trong lĩnh vực dược phẩm phát minh và vaccine đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng mang lại nhiều giá trị cho xã hội.
Các chuyên gia cho rằng, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực y tế, đặc biệt là về dược phẩm, Việt Nam đang có nhiều cơ hội lớn khi có đội ngũ lao động trẻ được đào tạo, tạo lập một môi trường thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, Cơ quan quản lý của Việt Nam cần xây dựng hành lang pháp lý đủ linh động để thích ứng với các thay đổi nhanh chóng trong công nghệ và tri thức đồng thời củng cố tính dự báo, hỗ trợ thúc đẩy khối nghiên cứu và doanh nghiệp thực hiện phát triển được các dự án nghiên cứu đổi mới sáng tạo. Với môi trường này, khối nghiên cứu và doanh nghiệp sẽ vượt qua được khoảng cách từ nghiên cứu đến thị trường và đồng hành trên hành trình đổi mới sáng tạo giải quyết các bài toán hiện tại và trong tương lai./.