Hơn 100 năm qua, hạ tầng đường sắt của nước ta vẫn không có gì thay đổi so với thời Pháp xây dựng. Hệ quả, thị phần hành khách và sản lượng hàng hóa của đường sắt vẫn chiếm tỷ lệ thấp nếu so với đường bộ, hàng không.
Mặt khác, đường sắt vẫn chỉ có một đường ray, đơn tuyến dọc Bắc-Nam, tính kết nối “rời rạc” khiến đường sắt đã “hụt hơi” nếu so với các loại hình vận tải khác.
Nhằm hiện thực hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị và triển khai các quy hoạch, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông hiện đại là nền tảng của một nước công nghiệp hiện đại, thu nhập cao, trong đó đường sắt là phương thức quan trọng trên các hành lang có khối lượng lớn.
Do đó, trong nhiều văn kiện, Đảng và Nhà nước đã xác định mục tiêu đầu tư xây dựng tuyến đường sắt tốc độ trên trục Bắc-Nam nhằm tạo tiền đề quan trọng để đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao như nhiều quốc gia trên thế giới.
Đường sắt tốc độ cao không chỉ đơn thuần là một dự án, mà còn là công trình có tính biểu tượng, ý nghĩa chiến lược, đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.
Ngoài ra, việc đầu tư dự án sẽ tạo ra sức bật cho nền kinh tế, phát triển đường sắt tốc độ cao là tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh như Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu chỉ đạo.
Dấu mốc lịch sử của ngành đường sắt
“Ngày 30/11/2024, Quốc hội đã thông qua chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam, đây là dấu mốc lịch sử của ngành đường sắt, khẳng định vị trí, tầm quan trọng của giao thông vận tải đường sắt trong sự phát triển của đất nước,” ông Hoàng Gia Khánh, Tổng Giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) nhấn mạnh.

Gắn bó cả cuộc đời với ngành đường sắt, trải qua nhiều vị trí từ cán bộ điều độ tại đơn vị và dần dần lên cấp lãnh đạo quản lý, ông Khánh tin rằng, đối với những “người đường sắt”, thời gian 5 giờ 30 phút cho hành trình Hà Nội-Thành phố Hồ Chí Minh của mác tàu đường sắt tốc độ cao cao nhất trong tương lai so với hành trình hơn 30 giờ hiện nay thể hiện rõ nhất khát khao “đổi mới” của ngành đường sắt.
Theo ông Khánh, mặc dù Việt Nam sớm có hệ thống đường sắt hiện đại, nhưng sau hơn 100 năm thì kém dần và nay thực sự rất lạc hậu. Thậm chí, trong những năm trở lại đây, đường sắt đã “hụt hơi” so với các loại hình vận tải đường bộ, hàng không do không được đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt đã quá lạc hậu, giá vé cao, thị phần vận chuyển thấp…
“Dù chiến tranh đã đi qua 50 năm, nước ta hầu như không một tuyến đường sắt mới nào được làm ra và đưa vào khai thác thương mại hiệu quả. Khổ đường 1m, chạy tuyến đơn, đường sắt Việt Nam vẫn là những gì người Pháp đã làm từ 100 năm về trước. Những khổ đường ray hàng trăm năm vẫn phải ‘oằn mình’ cõng hàng chục lượt tàu chạy qua,” Tổng Giám đốc VNR nhìn nhận.

Khi Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam được Quốc hội thông qua, cán bộ, công nhân viên ngành đường sắt đã không giấu được sự xúc động, vui mừng bởi dự án này được coi là dấu mốc lịch sử của ngành đường sắt, khẳng định vị trí, tầm quan trọng của giao thông vận tải đường sắt trong sự phát triển của đất nước. Do đó, VNR sẽ có những đột phá về chiến lược, với tư duy dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm nhằm hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Ông Bùi Xuân Phong, nguyên Chủ tịch Hội Kinh tế và Vận tải đường sắt Việt Nam cho rằng Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam là dự án cho tương lai nhưng cũng là “cứu cánh” cho hệ thống hơn 1.700km đường sắt Bắc-Nam hiện tại vốn có “tuổi đời” hơn 100 năm, đã xuống cấp, lạc hậu và thường tê liệt trong mùa mưa bão.
“Nếu không có tuyến đường sắt hiện đại thay thế cho đường sắt hiện nay, hành khách sẽ tiếp tục ‘quay lưng’ với tuyến đường sắt. Đường sắt Việt Nam sẽ mất đi cơ hội cạnh tranh và phát triển,” ông Phong nêu quan điểm.

Ông Nguyễn Xuân Thủy, nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Giao thông Vận tải bày tỏ sự lạc quan khi 23 ga đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam sẽ tạo ra không gian mở, không gian phát triển cho các địa phương.
“Xung quanh các nhà ga sẽ hình thành nên các khu đô thị, khu công nghiệp dựa trên quy hoạch của địa phương, khai thác có hiệu quả nguồn lực quỹ đất. Mặt khác, đường sắt tốc độ cao cũng sẽ cơ cấu lại vận tải khi cự ly ngắn dưới 150km ưu thế thuộc về đường bộ; cự ly trung bình 150-800km ưu thế thuộc về đường sắt tốc độ cao, cự ly dài trên 800km ưu thế thuộc về hàng không và đường sắt tốc độ cao,” ông Thủy nói.