Gắn liền với mảnh đất Quảng Trị anh hùng, dòng sông Thạch Hãn từ bao đời nay đã trở thành biểu tượng linh thiêng, lưu giữ dấu ấn của một thời bom đạn khốc liệt. Mùa hè đỏ lửa năm 1972, Thạch Hãn đã hòa mình vào khúc tráng ca bi hùng nơi Thành cổ Quảng Trị, trở thành chứng nhân lịch sử cho 81 ngày đêm anh dũng chiến đấu của dân tộc…
Nằm trải dài trên dải đất miền Trung Việt Nam, Quảng Trị như một bản lề chuyển tiếp giữa hai miền địa lý Bắc - Nam, nơi những cung đường cong cong ôm lấy biển Đông. Cách thủ đô Hà Nội 593 km về phía Nam và thành phố Đà Nẵng 178 km về phía Bắc, Quảng Trị tựa như một bức tranh thiên nhiên hòa quyện giữa núi rừng hùng vĩ, đồng bằng trù phú và bờ biển dài xanh thẳm. Phía Bắc giáp Quảng Bình, phía Nam kề Huế, phía Tây tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng tráng, phía Đông, Quảng Trị mở lòng ra biển Đông - nơi những con sóng bạc đầu ngày đêm kể chuyện về gió, về bão và về cả sự kiên cường, bất khuất của con người nơi đây.
Quảng Trị mang trong mình sắc thái của vùng đất nhiệt đới ẩm, nơi ánh nắng chói chang xen lẫn những cơn mưa bất chợt, nơi khí hậu khắc nghiệt đã tôi luyện nên những con người rắn rỏi, kiên cường. Hơn cả một vùng đất với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, Quảng Trị như một cuốn sử thi sống động, nơi mỗi tấc đất đều thấm đẫm máu và nước mắt của những năm tháng hào hùng, mỗi viên gạch đều thấm đẫm chứng tích của một thời chiến tranh máu lửa. Quảng Trị chính là nơi mà những di tích lịch sử cách mạng được xếp hạng trải khắp chốn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Quảng Trị trở thành biểu tượng của sự chia cắt và đoàn tụ. Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, nơi vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước - không chỉ là một cây cầu mà còn là vết hằn đau thương về những năm tháng chia ly không thể nào quên trong lịch sử dân tộc. Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, những con đường xuyên rừng vượt núi, nối liền hậu phương với tiền tuyến, là minh chứng cho ý chí bất khuất của quân và dân Việt Nam. Dưới lòng đất, địa đạo Vịnh Mốc cùng hệ thống làng hầm Vĩnh Linh như những trang sử ngầm, nơi người dân Quảng Trị đã sống, chiến đấu và bảo vệ quê hương trong gian khó. Đặc biệt, không thể không nhắc đến Thành cổ Quảng Trị và dòng sông Thạch Hãn - những chứng nhân thầm lặng của 81 ngày đêm khói lửa mùa hè năm 1972. Nơi đây vẫn còn đó, trầm mặc giữa đất trời, lặng lẽ kể lại câu chuyện bi hùng về những người cha, người con đã ngã xuống vì độc lập của nước nhà.
Với chiều dài khoảng 155km, sông Thạch Hãn bắt nguồn từ phía Đông dãy Trường Sơn. Dòng sông chảy theo hướng Đông và Đông Bắc, gặp sông Rào Quán lại chảy về hướng Đông rồi ngược lên phía Bắc, nhập với sông Cam Lộ tại ngã ba Dã Độ rồi lại quay về hướng Đông, đổ ra biển Đông qua cửa Việt Yên. Trên hành trình ấy, dòng sông chảy qua phía Tây Nam thị xã Quảng Trị - thị xã được hình thành từ làng Thạch Hãn xưa và chính từ đó, con sông đã mang theo tên gọi thân thuộc ấy như một dấu ấn gắn liền với con người và lịch sử mảnh đất này.
Người dân Quảng Trị từ bao đời nay, vẫn trìu mến gọi nó là “sông Hàn” - cái tên được nâng niu trong từng câu ca dao xưa: “Chẳng thơm cũng thể hương đàn/ Chẳng trong cũng nước nguồn Hàn chảy ra.” Thạch Hãn không chỉ là dòng nước trong trẻo, mát lành, nuôi dưỡng đất đai mà còn là biểu tượng linh thiêng - nơi gửi gắm, lưu giữ những câu chuyện huyền thoại, những ký ức đau thương mà hào hùng và cả những giá trị văn hóa sâu sắc, như một cuốn sử thi được viết bởi dòng chảy của thời gian.
Nếu như trong lịch sử, sông Bến Hải mang nỗi đau chia cắt đất nước thì Thạch Hãn được coi là dòng sông lịch sử gắn liền với cuộc chiến 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa năm 1972 bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Dòng sông ấy lặng lẽ trôi giữa lòng đất Quảng Trị, đã chứng kiến những tháng ngày lịch sử rực lửa - nơi xương máu của bao thế hệ thanh niên Việt Nam đã hóa thân mình vào nước, nhuộm đỏ từng con sóng.
Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm giữ vững Thành cổ trở thành sự kiện quan trọng trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc đấu tranh ngoại giao, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris, mở đường cho đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trong trận chiến oai hùng ấy, dòng sông Thạch Hãn đã hoá thành một chứng nhân sống của lịch sử cùng với quân dân và mảnh đất Quảng Trị, hứng trọn những trận bom đạn khốc liệt của kẻ thù. Dòng sông không chỉ là con đường tiếp tế chủ yếu cho mặt trận Quảng Trị mà còn là nơi yên nghỉ của biết bao chiến sĩ - những anh hùng “Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra đất nước”.
Ngược dòng quá khứ về mùa hè năm 1972, dưới cái nắng như đổ lửa miền Trung, thành cổ Quảng Trị - mảnh đất chỉ rộng vỏn vẹn 25 hecta ấy, đã trở thành tâm điểm của một trong những trận đánh khốc liệt và dai dẳng nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại Việt Nam. Năm 1972, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, những thanh niên gác lại giấc mơ giảng đường vào tham gia chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị. Cuộc đọ sức không cân sức giữa quân Giải phóng và lực lượng quân đội Sài Gòn do Mỹ hậu thuẫn đã biến nơi đây thành “ cối xay thịt”, thành “chảo lửa” rực cháy - nơi từng tấc đất như bốc lửa, từng hơi thở mang mùi thuốc súng và từng giọt máu đổ xuống đều thấm đẫm tình yêu nước và khát vọng hòa bình. Quảng Trị giữ vị trí chiến lược then chốt, là ranh giới phân chia hai miền Nam - Bắc, đồng thời mang ý nghĩa biểu tượng quan trọng trong các cuộc đàm phán tại Hội nghị Paris. Việc tái chiếm Thành cổ Quảng Trị không chỉ là mục tiêu quân sự cấp thiết mà còn mang tính chính trị sâu sắc, nhằm giúp Mỹ - ngụy khôi phục uy tín sau chuỗi thất bại, đồng thời tạo lợi thế trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1972 của Nixon. Chính vì lẽ đó, quân địch đã huy động tối đa lực lượng để đánh chiếm bằng được Thành cổ Quảng Trị.
Suốt 81 ngày đêm chiến đấu ấy - từ ngày 28/06 đến 16/09/1972, từng đợt đạn pháo, bom tấn và không kích của không quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa liên tục trút xuống. Trung bình mỗi ngày địch huy động 150 - 170 lần chiếc máy bay phản lực, 70 - 90 lần chiếc B52 để ném bom dội pháo huỷ diệt thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Không thể thống kê hết được số bom đạn dội xuống mảnh đất này, song các nhà khoa học quân sự đã ước tính trung bình mỗi chiến sĩ quân giải phóng ở đây phải hứng chịu trên 100 quả bom và 200 quả đạn pháo.
Giữa trận chiến máu lửa đầy cam go, dòng Thạch Hãn - con sông hiền hòa vốn chỉ quen chảy giữa những triền xanh của mảnh đất thiêng liêng Quảng Trị - bất ngờ trở thành tuyến huyết mạch sinh tử. Không chỉ là chứng nhân trầm mặc của lịch sử, mà nó còn trở thành con đường tiếp tế nhân lực, vật lực, hàng hóa chủ yếu từ hậu phương ra mặt trận Quảng Trị. Biết rõ vai trò sống còn ấy, địch điên cuồng dội bom, bắn phá hòng chặn dòng chi viện. Thạch Hãn - từ một dòng sông hiền hòa, đã hóa thành dòng sông máu, trở thành một nhân chứng sống của lịch sử, chứng kiến một giai đoạn bi hùng của quân và dân Quảng Trị.
Trong ký ức của người lính, việc tiến vào Thành cổ, chiến đấu vì quê hương trở thành điều hiển nhiên. “Ngày ấy ai cũng đi bộ đội cả, tôi cũng xung phong mà đi. Có những người bạn của tôi còn phải viết đơn bằng máu để xin đi”, cựu chiến binh Nguyễn Trọng Bường, tiểu đoàn 8, tỉnh đoàn Quảng Trị chia sẻ. Còn với nhà báo, chiến sĩ trinh sát Tiểu đoàn 14, Sư đoàn 325 Phùng Huy Thịnh, thời điểm ấy là thời điểm “không có đường lui” trước sự tấn công dồn dập của quân đội Mỹ, “riêng tỉnh Quảng Trị không lúc nào là ngừng bom, không lúc nào là ngừng pháo”. Vì vị trí chiến lược trọng yếu của tỉnh Quảng Trị, nơi đây đã trở thành “điểm nóng” mà quân Mỹ dồn lực tấn công, số lượng bom, đạn, pháo mà kẻ thù rải xuống mảnh đất này là không thể tính được.
Tham gia chiến trường với vai trò là chiến sĩ trinh sát pháo binh, cùng đơn vị yểm trợ cho cả ba trung đoàn bộ binh đóng ở Thành cổ Quảng Trị, với nhà báo Phùng Huy Thịnh, dòng sông Thạch Hãn đã trở thành: “Dòng sông quá sức quen thuộc. Là nơi mà chúng tôi phải vượt qua liên tục cả mùa khô lẫn mùa nước. Dòng sông Thạch Hãn với tôi, với những chiến sĩ chúng tôi thân thuộc nhưng cũng quá đỗi khốc liệt khi nhớ lại những ngày tháng ấy”.
Quả thực, là dòng sông cùng người lính chiến đấu, gắn bó cùng người lính trong suốt 81 ngày đêm đỏ lửa, dòng Thạch Hãn đã chứng kiến quá nhiều những câu chuyện đau thương mà hùng tráng của quân và dân ta, đã in sâu trong lòng sự khốc liệt của Quảng Trị. “Với tôi thì sống ở Quảng Trị không chết mới là lạ. Cứ mỗi ngày đêm lại một đại đội được tăng cường vào thành cổ. Ngày hôm sau (đại đội) hoặc là nằm lại, hoặc là khênh nhau ra khỏi chiến trường. Rồi lại một đại đội tiếp nữa đi vào, 81 ngày đêm là 81 đại đội, mỗi đại đội từ 100 đến 120 người, cứ thế”, nhà báo Phùng Huy Thịnh kể lại.
Trong ký ức của người cựu chiến binh ấy, cuộc chiến ở Quảng Trị không chỉ là cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc, cuộc chiến với quân thù, mà còn là cuộc chiến vượt qua trùng trùng gian khó ở Thành cổ: từ việc thiếu ngủ, dịch chấy rận, muỗi, vắt hay thậm chí là thiếu ăn. “Sống ở dưới hầm, trời mưa là hầm ngập nên rận và chấy là chuyện bình thường. Ghẻ lở hay hắc lào là chuyện không bộ đội nào không trải qua. Chằng chịt. Vắt và muỗi là không thể hình dung được [...] Ăn uống ở Quảng Trị thì đói no bất thường. Có khi được bữa no, nhưng cũng có khi vài ba hôm không có gì ăn. Bên họ (quân Mỹ) thừa đạn, thừa xe tăng, thừa gạo, bên ta thì thiếu thốn đủ đường. Những năm tháng ấy miền Bắc cũng còn khó khăn, gạo có ít, bữa cơm bữa cháo hầu như toàn nước. Có những anh vào bộ đội mới được vài ăn bữa no, vì ở quê nhà nghèo quá”.
Ngoài những thiếu thốn về vật chất, những người lính Thành cổ còn phải trải qua sự căng thẳng về tinh thần sau mỗi trận pháo, trận bom, trận chiến giữ đất. Thế nhưng, giây phút khó khăn nhất là khi biết Mỹ mang máy bay B52 đánh Hà Nội - Hải Phòng. Là người con của thủ đô, là người lính Hà Nội “xếp bút nghiên lên đường ra trận”, ký ức ấy với nhà báo Phùng Huy Thịnh là không thể nào quên. “Tôi là người Hà Nội, cho nên rất yêu Hà Nội. Khi ấy Quảng Trị một ngày không biết bao nhiêu trận B52 mà hôm ấy lại ắng đi, có một, hai trận thôi. Tối đến, tôi nghe đài của chính trị viên thì biết được Mỹ mang B52 ra đánh Hà Nội - Hải Phòng. Tất cả lính chúng tôi khi ấy cuống lên, vì Mỹ đánh ở đây chúng tôi có thể chịu được vì hầm hào của chúng tôi kiên cố. Chúng tôi quen rồi, chúng tôi chịu đựng được. Người ở mặt trận chúng tôi rất lo lắng cho người ở hậu phương khi bom đạn khốc liệt, nguy hiểm lắm. Anh lính nào có cô bạn gái ở hậu phương thì lại càng lo. Tổ quốc trong chúng tôi chính là gia đình, là bạn bè, là người thân, là cô bạn gái, lúc nào cũng vậy. Lứa lính sinh viên chúng tôi ngày ấy ảnh hưởng bởi văn hóa Nga Xô-viết, trong đó có chủ nghĩa lãng mạn tích cực thời vệ quốc, nên khi ấy chúng tôi đúng là ‘Quyết chiến đấu đến giọt máu cuối cùng/Vì tổ quốc ta kiêu hùng/Vì ánh lửa muôn đời sáng trong ta/Vì tình yêu nơi quê nhà’. Nên ngày hôm sau, tất cả chúng tôi đều viết đơn lên mặt trận, xin đánh mạnh ở trong này để kéo B52 của Mỹ vào lại Quảng Trị”.
Nhớ lại những ngày tháng khốc liệt, những ngày tháng mà “sự sống chết chỉ trong gang tấc” ấy, nhà báo Phùng Huy Thịnh chia sẻ “Cuộc sống và chiến đấu của chúng tôi là như thế, chiến đấu với địch, chống lại bom đạn, chống lại lại bệnh tật, cháy rận, chống lại sự đói khát, chống lại diễn biến tâm lý khi mà quân Mỹ đánh hậu phương. Ngần ấy thứ chụp lên đầu và lên trái tim của những chàng trai 19, 20 trong vẻn vẹn một mùa hè khiến chúng tôi trưởng thành rất nhanh”.
Những gian khổ của người lính in dấu trên từng tấc sông Thạch Hãn, biến dòng sông trở thành dòng sông “nhiều thương tích chiến tranh”, dòng sông “chảy qua bao kỷ niệm vơi đầy”, dòng sông “chuyển hộ” cho hậu phương “hạt gạo nuôi quân”, “chuyển hộ” cho người lính “viên đạn bắn thù”, dòng sông giúp người lính vượt qua cơn khát nước, qua lúc bị thương vì đạn bom kẻ thù trong thơ của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Cứ thế, dù trực tiếp hay gián tiếp, dòng sông vẫn luôn ở bên người lính, cùng người lính kiên cường vượt qua mùa hè Quảng Trị đỏ lửa, để áo người lính “còn thấm ướt nước sông đây”...
Trong dòng ký ức đầy xót xa nhưng cũng rất đỗi oanh liệt và tự hào của người lính, hình bóng dòng sông Thạch Hãn luôn hiện hữu trong từng câu chuyện kể. Đó là dòng sông mà cựu chiến binh Nguyễn Trọng Bường mỗi lần vượt qua đều chỉ tâm niệm “Miễn sao bơi được sang sông để đi chiến đấu thôi, chứ không còn suy nghĩ sống chết gì cả”; Là dòng sông mà với nhà báo Phùng Huy Thịnh, là nhân chứng cho những “câu chuyện cổ tích thời chiến tranh” - khốc liệt, nhưng cũng đầy cảm động về tình đồng chí, đồng đội và tình yêu Tổ quốc.
Không chỉ là nhân chứng sống, là con đường tiếp tế của quân và dân ta ở Thành cổ, Thạch Hãn còn là dòng sông “Với chúng tôi sao nó lại hung dữ đến thế, vì nó ‘nuốt’ nhiều đồng chí của chúng tôi quá. Ấy là khi mùa nước, lúc đó trinh sát pháo binh chúng tôi được lệnh rút lui cùng với bộ binh. Mùa nước to, sông Thạch Hãn chảy siết lắm. Ba anh em tôi lúc đó là anh đại đội trưởng, anh thông tin và tôi là trinh sát, mỗi anh bị sóng cuốn đi một nơi và cuốn trôi một cây rưỡi. May mà không vào vùng địch. Khi gần bơi đến bờ thì tôi lại gặp một cái xoáy nước. Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi có cảm giác tuyệt vọng. Sau khi vượt một cây số rưỡi bị dòng sông cuốn đi tôi đã mệt rồi, vào đến gần bờ có một cái xoáy nước nó cuốn tôi vào. Tôi đã nghĩ có lẽ đây là lúc chết của mình. Nhưng may mắn sao, đồng đội tôi trên bờ nhìn thấy tôi và giúp tôi vào bờ. Thế đấy, tình đồng đội, những cái sự may mắn này và thậm chí là sự sống - cái chết trong chiến tranh nó diễn ra chỉ chớp mắt thế thôi. Cảm giác tuyệt vọng khi ấy vô cùng khủng khiếp, mình chết đến nơi mà chết không phải vì bom đạn mà lại chết vì xoáy nước”, nhà báo Phùng Huy Thịnh bồi hồi kể lại.
Với người trinh sát ấy, sống sót qua xoáy nước của dòng sông Thạch Hãn là một sự may mắn. Nhưng không phải người lính nào cũng may mắn như thế, không phải ngẫu nhiên mà câu thơ “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/Đáy sông còn đó bạn tôi nằm” của nhà báo Lê Bá Dương lại gây xúc động mạnh đến vậy. Đó là vì dưới đáy sông Thạch Hãn, rất nhiều chiến sĩ của ta đã nằm lại, nằm lại vì bom đạn của địch, hay nằm lại vì chính sự ác liệt của dòng sông mùa nước lũ, như lời cựu chiến binh Nguyễn Trọng Bường kể lại “Nhiều người thấy sông Thạch Hãn là thấy sợ rồi, vì cứ qua sông Thạch Hãn là sẽ có người hy sinh”. Hay như trong ký ức của cựu chiến binh Phùng Huy Thịnh, “Mỗi lần ta vượt sông Thạch Hãn mà quân Mỹ phát hiện, chúng sẽ bắn pháo chơm (hay bây giờ còn gọi là pháo chùm). Trên không từ 70 đến 50 mét, chúng chụp những cái nón, chính là pháo chơm xuống, thế là một vạt lính đi hết. Những lần như thế, sự hy sinh là không thể đếm được”.
Theo một số tài liệu ghi lại, những ngày cuối cùng của chiến dịch, thời tiết bất lợi lại trở thành đồng minh của kẻ thù, càng đẩy cuộc chiến vào tình thế khắc nghiệt. Áp thấp nhiệt đới liên tục xảy ra, trời mưa lớn khiến nước sông Thạch Hãn dâng cao, toàn bộ thị xã Quảng Trị chìm trong biển nước. Lợi dụng tình hình ngập úng, địch tăng cường bắn phá vào các vị trí phòng ngự của ta. Bộ đội ta vừa phải ngâm mình trong nước, vừa chống chọi với thiên nhiên, vừa căng mình đánh trả các đợt tiến công của địch. Lương thực thiếu thốn, nước uống không đảm bảo, dịch bệnh hoành hành. Thể lực suy giảm nghiêm trọng khiến thương vong lên đến đỉnh điểm - có ngày lên tới hơn 100 người hy sinh. Thạch Hãn lúc này không còn là dòng sông bình dị, mà nó đã mang theo cả máu và những vết thương không thể nhìn thấy được - vết thương của da thịt và cả những ám ảnh khắc sâu trong tâm trí người lính.
Trước tình thế đó, để bảo toàn lực lượng, quân ta được lệnh rút lui khỏi Thành cổ sang phía bờ Bắc Thạch Hãn vào 18 giờ, ngày 16/9/1972 - ngày cuối cùng của chiến dịch 81 ngày đêm.
Đánh đổi cho những chiến công ấy là máu, là nước mắt, là sự hy sinh không thể đong đếm. Đặc biệt, trong giai đoạn rút quân ấy, hàng trăm chiến sĩ và thương binh sau nhiều ngày ngâm mình trong nước, đói rét và bệnh tật đã không còn đủ sức để chống chọi và vượt qua Thạch Hãn trở về. Và dòng sông, một lần nữa, ôm vào lòng những người con anh hùng của đất nước, lặng lẽ trở thành nơi an nghỉ vĩnh hằng của các chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị. Hàng ngàn người con ưu tú của Tổ quốc, những người lính đã mãi mãi nằm lại ở tuổi mười tám, đôi mươi trong mùa hè đỏ lửa năm ấy. Họ chiến đấu với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, họ ngã xuống để đất nước đứng lên. Xương máu của các anh đã quyện vào từng viên gạch Thành cổ, hòa vào từng hạt phù sa, từng con sóng nhỏ lăn tăn trên dòng Thạch Hãn - như một bản anh hùng ca không lời, để ngàn đời sau vẫn mãi khắc ghi.
Ngày nay, khi chiến tranh đã lùi xa, hòa bình được lập lại, dòng Thạch Hãn vẫn lặng lẽ miệt mài chảy qua những cánh đồng Quảng Trị, không còn tiếng bom rơi đạn réo, dòng sông giờ đây trong veo như tấm gương phản chiếu ký ức bất tử của một thời máu lửa. Thạch Hãn không chỉ là dòng sông của thiên nhiên, mà đã hóa thành dòng sông của những cuộc hành hương, nơi những trái tim đồng đội, đồng bào từ khắp mọi miền đất nước tìm về để tri ân, để tưởng nhớ những anh hùng đã hòa mình vào dòng nước. Dòng sông ấy, giờ đây, là linh hồn của Quảng Trị, là biểu tượng của sự kiên cường, chịu thương chịu khó của người dân nơi đây và là sợi dây gắn kết những thế hệ người dân với lịch sử, văn hóa và tâm hồn của mảnh đất anh hùng.
“Giờ đây, mỗi lần về, anh em lại cùng nhau thắp nén hương, thả hoa xuống dòng Thạch Hãn để tưởng nhớ đồng đội. Đứng bên sông, nhìn nước trôi lững lờ mà lòng nghẹn lại - thương lắm những người anh em đã hi sinh trên dòng sông Thạch Hãn…”, cựu chiến binh Nguyễn Trọng Bường nghẹn ngào chia sẻ.
Còn trong tâm tưởng của người cựu chiến binh Phùng Huy Thịnh, “Mỗi lần vào Quảng Trị lại là một lần xúc động. Sau mỗi lần đến mộ bạn bè thắp hương xong, đến khi ra về trái tim tôi lại rộn lên niềm thôi thúc rằng bản thân phải sống như thế nào, sống như thế nào cho có ý nghĩa, sống sao cho đàng hoàng, xứng đáng…”
Hằng năm, dòng người từ mọi miền Tổ quốc lại trở về Quảng Trị - vùng “đất lửa” từng oằn mình trong bom đạn - để thăm viếng và tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì nền độc lập, tự do. Không hẹn mà gặp, hàng nghìn người, từ cụ già đến em nhỏ cùng hội tụ về Thành cổ, nơi từng là chảo lửa khốc liệt nhất mùa hè đỏ lửa 1972.
Với thế hệ trẻ hôm nay, hành trình về với Thành cổ Quảng Trị không chỉ là một chuyến đi, một cuộc tham quan, mà còn là cơ hội để lắng lại giữa nhịp sống hối hả, để trưởng thành hơn trong nhận thức, nuôi dưỡng thêm lòng biết ơn và khơi dậy trong trái tim những trăn trở về trách nhiệm cá nhân đối với quê hương, Tổ quốc.
Hòa chung khúc tráng ca Thành cổ Quảng Trị, đó là dòng sông Thạch Hãn. Nơi đây trong cuộc chiến 81 ngày đêm lịch sử 1972, hàng ngàn chiến sĩ giải phóng quân của ta đã vĩnh viễn yên nghỉ ở dòng sông Thạch Hãn linh thiêng này. Chính vì lẽ đó, cứ vào những dịp 30/4 hay 22/12 và các ngày rằm hàng tháng, với truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc, lễ hội thả đèn hoa đăng được tổ chức.
Thả hoa trên dòng sông Thạch Hãn là cách chúng ta sưởi ấm linh hồn các chiến sĩ đã yên nghỉ ở Thành cổ, ở dòng sông, để các anh biết rằng, mọi người luôn nhớ tới các anh - những con người đã xả thân vì sự trường tồn của Tổ quốc, vì độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Mỗi bông hoa được thả trên dòng Thạch Hãn, mỗi nén hương được thắp trên di tích - đều là minh chứng sống cho lòng biết ơn, cho sự ghi nhớ muôn đời của người dân Việt Nam, của một thế hệ đã chiến đấu đầy oanh liệt năm xưa, của một thế hệ trẻ lớn lên trong hòa bình hiện tại với những người lính Thành cổ đã nằm lại để bảo vệ non sông./.
Những người thực hiện:
Bài viết: Minh Anh, Như Quỳnh
Biên tập: Trang Vũ, Hoài Anh
Thiết kế: Thu Trang, Thục Phương
Ảnh và Quay phim: Khánh Ly, Vân Anh