Bài 1: Nỗi đau “rừng vàng, biển bạc”: Hệ sinh thái suy giảm, “báu vật toàn cầu” bị đe dọa
Mega Story - Ngày đăng : 14:59, 28/07/2025
Trước “dòng chảy” phát triển - nhiều núi đá ở Kim Bảng đã bị tàn phá bởi hoạt động khai thác đá sản xuất ximăng, vật liệu xây dựng, một diện tích lớn núi rừng, không gian sinh tồn của nhiều loài đặc hữu, quý hiếm đã bị thu hẹp.
Mega Story
Bài 1: Nỗi đau “rừng vàng, biển bạc”: Hệ sinh thái suy giảm, “báu vật toàn cầu” bị đe dọa
{Tên tác giả}•{Ngày xuất bản}
Trước “dòng chảy” phát triển - nhiều núi đá ở Kim Bảng đã bị tàn phá bởi hoạt động khai thác đá sản xuất ximăng, vật liệu xây dựng, một diện tích lớn núi rừng, không gian sinh tồn của nhiều loài đặc hữu, quý hiếm đã bị thu hẹp.
Nằm cách Thủ đô Hà Nội - “trái tim của cả nước” khoảng 60km, Kim Bảng, Hà Nam (sau khi sáp nhập tỉnh, thành vào 1/7/2025 là Ninh Bình) được biết đến là khu vực khai thác đá “sôi động” nhất nhì khu vực phía Bắc, khi có tới gần 30 mỏ đá hoạt động. Đây cũng là khu vực có diện tích rừng tự nhiên lớn với hệ sinh thái núi đá vôi, đa dạng sinh học phong phú, trong đó có nhiều loài động, thực vật đặc hữu, quý hiếm. Đặc biệt, nơi đây có loài Voọc mông trắng (Voọc quần đùi trắng), nằm trong số 25 loài nguy cấp nhất trên thế giới cần được bảo vệ.
Tuy nhiên, trước “dòng chảy” phát triển - nhiều núi đá ở Kim Bảng đã bị tàn phá bởi hoạt động khai thác đá sản xuất ximăng, vật liệu xây dựng, một diện tích lớn núi rừng, không gian sinh tồn của nhiều loài đặc hữu, quý hiếm đã bị thu hẹp.
Cận cảnh hoạt động khoan nổ mìn, phá núi. (Ảnh: Hoài Nam/Vietnam+)
Trong cuộc trò chuyện với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus (thời điểm tháng 5/2025), ông Đỗ Mạnh Hùng - Nguyên Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Kim Bảng, cho biết Hà Nam là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Mặc dù rừng tự nhiên tại Kim Bảng chủ yếu là rừng nghèo trên núi đá vôi, song nơi đây được đánh giá là nơi có hệ động, thực vật phong phú, trong đó có nhiều loài đặc hữu. Tiếc rằng theo thời gian, một phần lớn diện tích rừng, núi đá vôi đã bị thu hẹp.
Nêu con số dẫn chứng, người đàn ông từng gắn bó gần 40 năm với nghề bảo vệ rừng cho hay năm 1997, thời điểm mới chia tách tỉnh Nam Hà (thành Hà Nam và Nam Định), Hà Nam có hơn 11.000 ha rừng. Với một tỉnh mà diện tích tự nhiên chỉ có hơn 86.000 ha, thì phần rừng trên được xem là “lá phổi xanh” rất lớn. Vậy nhưng, tới nay, tổng diện tích rừng và đất rừng chỉ còn lại khoảng hơn 6.427 ha.
Tại Quyết định số 380/QĐ-UBND ngày 28/2/2025 về Công bố hiện trạng rừng năm 2024 ở trên địa bàn, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Nam cũng cập nhật số liệu cho thấy tỉnh này chỉ còn hơn 5.333 ha đất có rừng, hơn 1.000 ha đất chưa có rừng. Trong số đó, riêng tại Kim Bảng có hơn 4.229 ha có rừng.
Đáng chú ý, trong số hơn 4.229 ha có rừng tại Kim Bảng, thống kê cho thấy hiện có tới hơn 1.139 ha được sử dụng vào mục đích khác (bao gồm cả khai thác đá, sản xuất ximăng, vật liệu xây dựng), tập trung chính ở khu vực xã Liên Sơn và các phường lân cận như Tân Sơn, Tượng Lĩnh, Ba Sao.
Nhìn rộng ra cả nước, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị cũng thừa nhận bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học đang chịu sức ép lớn từ phát triển kinh tế, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, suy thoái rừng.
Ở dưới biển, các hệ sinh thái rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, cũng đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng. Theo Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Nguyễn Đức Toàn, một trong những nguyên nhân chính gây suy thoái các khu vực sinh thái trên là do ô nhiễm môi trường, đặc biệt là rác thải nhựa và chất thải từ nuôi trồng thủy sản. Ước tính, mỗi năm, ngành nuôi tôm thải ra gần 3 triệu tấn chất thải rắn và hàng triệu m3 nước thải.
Chỉ riêng hệ sinh thái cỏ biển, theo nghiên cứu của các chuyên gia Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, hệ sinh thái này đang đứng trước mức độ suy thoái rất đáng báo động. Trong đó, các đảo ven bờ Bắc Trung Bộ đang bị suy thoái nặng với tốc độ trung bình 6-7%/năm, điển hình như Lý Sơn, vịnh Nha Trang…
Bãi rạn san hô thuộc Khu bảo tồn biển Vườn quốc gia Núi Chúa. (Ảnh: TTXVN)
Số liệu thống kê được công bố gần đây cũng cho thấy con số báo động khi Việt Nam chỉ còn khoảng gần 160.000 ha rừng ngập mặn, chiếm khoảng 1,5% diện tích rừng. So với năm 1945, diện tích rừng này đã giảm hơn 140.000 ha, khoảng 40%. Trong đó, diện tích rừng ngập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long đã giảm tới 80% trong vòng 50 năm qua. Một trong những nguyên nhân khiến rừng ngập mặn bị suy giảm là bởi hoạt động lấn biển, nuôi trồng thủy sản không bền vững…
Rừng ngập mặn cũng chịu ảnh hưởng mạnh từ hoạt động của con người. (Ảnh: Hữu Chí/TTXVN)Rừng ngập mặn tại huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. (Ảnh Nguyễn Nam/TTXVN)Rừng ngập mặn tại huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. (Ảnh Nguyễn Nam/TTXVN)
Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Lê Trần Nguyên Hùng cũng nhấn mạnh rừng ngập mặn và các hệ sinh thái biển của Việt Nam đang bị suy giảm nghiêm trọng bởi nhiều nguyên nhân. Trong đó, do một bộ phận người dân khai thác quá mức và phát triển các ngành kinh tế biển cũng tạo áp lực rất lớn đến các hệ sinh thái biển.
Điều đáng lo lắng hơn là việc rừng phải lùi bước trước sức tàn phá bởi các hoạt động phát triển, tác động tiêu cực từ con người, đang khiến đa dạng sinh học suy giảm, nhiều loài đặc hữu quý, hiếm - “báu vật toàn cầu” gần hơn bờ vực tuyệt chủng. Đây cũng là vấn đề, giới chuyên gia, các cơ quan bảo tồn đặc biệt quan tâm.
Đơn cử như tại Hà Nam, trước thực trạng rừng suy giảm, các loài hoang dã bị đe dọa bởi hoạt động nổ mìn phá núi, từ năm 2016, hàng chục văn bản từ Tổ chức Bảo tồn Động thực vật Quốc tế Fauna & Flora International (FFI) và các bộ, ngành, địa phương đã liên tiếp gửi đến chính quyền Hà Nam, đề nghị thành lập khu bảo tồn để bảo vệ quần thể linh trưởng đặc hữu, quý hiếm lớn thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Khu bảo tồn ngập nước Vân Long, tỉnh Ninh Bình). Nhưng, cho đến nay vẫn chưa thiết lập được vùng bảo vệ riêng cho “báu vật toàn cầu” ở Kim Bảng.
Vọoc mông trắng - “báu vật toàn cầu” gần hơn bờ vực tuyệt chủng. (Ảnh: Ryan Deboodt/Fauna & Flora)
Theo tìm hiểu của phóng viên, từ thông tin báo cáo của Tổ chức FFI, ngày 5/10/2016, Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) đã ban hành Văn bản số 1624/TCLN-BTTN gửi Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nam đề nghị tăng cường bảo vệ quần thể Voọc và báo cáo ủy ban nhân dân tỉnh xem xét thành lập khu bảo tồn. Đến ngày 27/4/2017, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nam gửi Tờ trình 63/TTr-SNN-KL về việc xin chủ trương xây dựng Đề án thành lập Khu bảo tồn Voọc mông trắng tại Kim Bảng.
“
Trong diễn biến liên quan đến bảo tồn, ngày 10/5/2017, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 628/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động khẩn cấp bảo tồn các loài linh trưởng ở Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2030.
Sau đó, ngày 18/5/2017, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Nam ban hành văn bản đồng ý chủ trương cho phép Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nam xây dựng Đề án thành lập Khu bảo tồn Voọc mông trắng tại Kim Bảng, nguồn kinh phí từ ngân sách tỉnh và các nguồn tài trợ khác. Khu vực đề xuất thành lập khu bảo tồn có tổng diện tích 2.488,3 ha thuộc địa bàn Ba Sao và các xã Thanh Sơn, Liên Sơn.
Thế nhưng, trong suốt 2 năm tiếp theo, việc thành lập khu bảo tồn trên vẫn chỉ dừng lại ở những bước bàn thảo sơ sài trên giấy. Đến ngày 19/6/2020, Tổng cục Lâm nghiệp tiếp tục ban hành Văn bản 823/TCLN-ĐDPH gửi Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Nam về việc hướng dẫn một số thủ tục thành lập khu bảo tồn trên.
Sau gần 4 năm mỏi mòn thúc đẩy, song gần như không rõ kết quả, ngày 10/7/2020, Tổ chức FFI lại tiếp tục gửi thư tới Thủ tướng Chính phủ, kiến nghị về việc bảo tồn khẩn cấp loài Voọc mông trắng tại rừng Kim Bảng.
Tiếp đó, ngày 23/7/2020, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Nam đã ban hành Quyết định số 1476/QĐ-UBND phê duyệt Đề cương về Kinh phí xây dựng Dự án thành lập Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voọc mông trắng, với diện tích dự kiến 3.500 ha, thuộc xã Thanh Sơn, Liên Sơn, Tân Sơn, Khả Phong và thị trấn Ba Sao. Thời gian thực hiện 2020-2021 với tổng kinh phí hơn 476,5 triệu đồng.
Đến ngày 24/7/2020, Văn phòng Chính phủ gửi Công văn 6026/VPCP-KGVX đề nghị Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Nam thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng về bảo tồn Voọc mông trắng; có biện pháp cấp bách bảo vệ quần thể Voọc mông trắng và rà soát, đánh giá việc chấp hành quy định pháp luật trong hoạt động khai thác đá trên địa bàn, bảo đảm không gây ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của loài Voọc mông trắng trong tự nhiên; giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hướng dẫn ủy ban nhân dân tỉnh này chỉ đạo nghiên cứu, đề xuất lập khu bảo tồn Voọc…
Trong các năm tiếp theo, Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục có các văn bản đốc thúc, thể hiện quan điểm tích cực trong việc ủng hộ thành lập Khu bảo tồn Voọc mông trắng Kim Bảng. Về phía địa phương, khi có các văn bản chỉ đạo từ trung ương, các sở, ngành của tỉnh Hà Nam cũng đều thực hiện quy trình, thủ tục xin thành lập khu bảo tồn.
Vậy nhưng, sau nhiều năm nỗ lực, bàn thảo, đến nay, dự án thiết lập khu bảo tồn trên vẫn chưa có quyết định rõ ràng từ phía lãnh đạo chính quyền địa phương.
Chia sẻ với phóng viên về nội dung trên, ông Phạm Quang Tùng, Quản lý Dự án Kim Bảng, Tổ chức FFI, thở dài nói: “Chúng tôi thực sự buồn, chán nản. Trong suốt gần 10 năm qua, chúng tôi đã đầu tư rất nhiều kinh phí để hỗ trợ kỹ thuật, nỗ lực giúp chính quyền địa phương thiết lập ‘ngôi nhà xanh’ - không gian sinh tồn cho Voọc mông trắng. Vậy mà đến nay, loài đặc hữu, ‘báu vật toàn cầu’ ở Kim Bảng vẫn đang phải sống chung với các mối đe dọa, thu hẹp không gian sống.”
Hay như tại vịnh Nha Trang, nghiên cứu mới được công bố của Trung tâm Nhiệt đới Việt -Nga, cho thấy 20 năm qua, khu vực này đã mất khoảng 191 ha rạn san hô, tương đương 12% diện tích khảo sát. Đây là tín hiệu báo động cho hệ sinh thái biển Nam Trung Bộ và sức hấp dẫn du lịch của một trong những vịnh đẹp nhất thế giới.
Trong câu câu chuyện với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, một chuyên gia bảo tồn cho rằng câu chuyện rừng, núi đá vôi bị suy giảm khiến các loài hoang dã đặc hữu quý, hiếm ở Kim Bảng bị đe dọa kể trên là thực tế rất rõ nét cho thấy vấn đề bảo tồn đang bị xem nhẹ trước những toan tính phát triển trong thời gian qua.
Và khi bảo tồn thiên nhiên “chỉ còn là lời kêu cứu muộn màng” thì việc nhiều loài động vật hoang dã quý, hiếm đứng trước nguy cơ tuyệt chủng là điều tất yếu.
Kết quả nghiên cứu được các nhà khoa học tại Đại học Cologne hợp tác với Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Vườn thú Cologne và một số tổ chức quốc tế, công bố gần đây cũng đã gióng hồi chuông lớn khi cập nhật danh sách cho thấy 112/329 loài động vật có vú xuất hiện tại Việt Nam, đang có nguy cơ tuyệt chủng.
“
Điều đáng suy ngẫm hơn là trong số đó có tới 36 loài hoang dã đặc hữu (không tồn tại ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới) và 9 loài được phân loại là siêu đặc hữu, chỉ xuất hiện ở những khu vực rất nhỏ hẹp ở trên lãnh thổ Việt Nam.
Thực tế tại nhiều địa phương (như Bắc Kạn, Đắk Lắk, Quảng Nam, Hà Giang, Quảng Bình, Nghệ An) trong những năm qua cũng cho thấy việc “ngôi nhà tự nhiên” bị suy giảm diện tích, bị tàn phá đã khiến các quần thể động vật hoang đã suy giảm mạnh (nhiều loài động vật quý, hiếm đã bị tuyệt chủng), thậm chí đẩy thiên nhiên đa dạng sinh học vào tình trạng “rơi tự do,” rất khó để cân bằng lại.
Đơn cử như hổ, theo Danh lục Đỏ Việt Nam và Sách Đỏ Việt Nam phiên bản 2024 do Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật chủ trì thực hiện và công bố mới đây, cách đây hơn 26 năm, tại Vườn Quốc gia Pù Mát (tỉnh Nghệ An), các nhà bảo tồn đã chụp được một bức ảnh hiếm hoi và quý giá về loài hổ ngoài tự nhiên. Thế nhưng, kể từ năm 1998 đến nay, chưa có một bức ảnh nào được ghi lại mà thấy hổ.
Một loài hoang dã khác cũng biến mất ở Việt Nam hơn 40 năm qua là mèo ri. Lần cuối loài này được nhìn thấy là vào năm 1978 tại K’Bang (tỉnh Gia Lai).
Hổ - loài vật dũng mãnh và quý hiếm - đã 26 năm vắng bóng trong môi trường tự nhiên ở Việt Nam. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)
Chia sẻ ở góc độ quốc tế, ông Patrick Haverman - Phó Trưởng đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP tại Việt Nam), bày tỏ sự lo lắng khi nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam đang chịu áp lực ngày càng tăng. Ông cũng đặc biệt nhấn mạnh rằng con số hơn một phần ba số loài động vật có vú của Việt Nam đang có nguy cơ tuyệt chủng không chỉ là mối quan tâm của quốc gia, mà nó còn phản ánh một cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Chỉ riêng linh trưởng, Việt Nam là “ngôi nhà” của 25 loài linh trưởng, trong đó một số loài linh trưởng đặc hữu chỉ tìm thấy ở nước ta (tập trung ở Kim Bảng và Vân Long, tỉnh Ninh Bình) như Voọc mông trắng. Thế nhưng, hiện có tới 90% số loài đang bị đe dọa, trong số đó có tới 5 loài nằm trong danh sách 25 loài linh trưởng nguy cấp nhất thế giới, tức chiếm 20% số loài đang bên bờ tuyệt chủng.
“Đó là thực tế rất đáng lo, đòi hỏi cần phải sớm có hành động kịp thời. Bởi mất đa dạng sinh học sẽ đe dọa đến các yếu tố nền tảng quan trọng của nền kinh tế, an ninh lương thực và sức khỏe của chúng ta,” ông Patrick Haverman nói./.