Bài 5. Nâng tầm “kho báu” di sản thiên nhiên để đất nước vươn mình: Đã đến lúc hành động
Mega Story - Ngày đăng : 18:49, 28/07/2025
Để đất nước vươn mình, phát triển bền vững trong Kỷ nguyên mới, các mô hình phát triển cũng cần phải đổi mới theo hướng xanh. Điều đó cũng nói lên rằng đã đến lúc Việt Nam cần phải có một tầm nhìn dài hạn cho thiên nhiên. Một chiến lược dài hơi, liên tục và kiên định, trong đó thiên nhiên không phải là phần thừa sau cùng của quy hoạch - mà là cấu phần cốt lõi trong phát triển bền vững.
Mega Story
Bài 5. Nâng tầm “kho báu” di sản thiên nhiên để đất nước vươn mình: Đã đến lúc hành động
d•{Ngày xuất bản}
Để đất nước vươn mình, phát triển bền vững trong Kỷ nguyên mới, các mô hình phát triển cũng cần phải đổi mới theo hướng xanh. Điều đó cũng nói lên rằng đã đến lúc Việt Nam cần phải có một tầm nhìn dài hạn cho thiên nhiên. Một chiến lược dài hơi, liên tục và kiên định, trong đó thiên nhiên không phải là phần thừa sau cùng của quy hoạch - mà là cấu phần cốt lõi trong phát triển bền vững.
Sau 50 năm thống nhất đất nước, gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu vĩ đại. Đó là nền tảng, là động lực để Việt Nam “ngẩng cao đầu” trong xu thế hội nhập.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến chuyên gia, lãnh đạo các địa phương cũng lưu ý rằng khi đất nước đi lên, chúng ta không chỉ có cơ hội để bảo tồn, mà còn có trách nhiệm phải làm tốt hơn những gì cha ông đã gìn giữ. Một thế kỷ nữa, có thể GDP sẽ tăng gấp mười, có thể công nghệ sẽ thay đổi mọi mặt đời sống, nhưng nếu không có sông sạch, rừng sâu, không có chim hót trên cánh đồng và sinh cảnh cho loài hoang dã sinh tồn, thì phát triển ấy có thật sự đem lại ý nghĩa cho con người?
Vì vậy, để đất nước vươn mình, phát triển bền vững trong Kỷ nguyên mới, các mô hình phát triển cũng cần phải đổi mới theo hướng xanh. Điều đó cũng nói lên rằng đã đến lúc Việt Nam cần phải có một tầm nhìn dài hạn cho thiên nhiên. Một chiến lược dài hơi, liên tục và kiên định, trong đó thiên nhiên không phải là phần thừa sau cùng của quy hoạch - mà là cấu phần cốt lõi trong phát triển bền vững.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị, nhấn mạnh thiên nhiên và đa dạng sinh học là nền tảng của mọi sự sống và cơ sở cho sự phát triển bền vững của con người trên Trái Đất. Bảo tồn đa dạng sinh học đồng nghĩa với bảo vệ tương lai của nhân loại. Đó cũng là lý do các quốc gia trên thế giới đã thông qua Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh- Montreal và thể hiện quyết tâm ngăn chặn suy thoái đa dạng sinh học vì sự phát triển bền vững của hành tinh.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện nay chính là đảm bảo môi trường sống cho các loài động vật đặc hữu quý, hiếm. Trong hình là Voọc mông trắng (Trachypithecus delacouri) trong khu bán hoang dã của EPRC với số lượng trong tự nhiên còn khoảng 400 cá thể. (Ảnh TTXVN phát)
Đối với Việt Nam, ông Trị đánh giá là quốc gia có tính đa dạng sinh học cao, đứng thứ 16 trên thế giới với nhiều loài sinh vật nguy cấp, quý, hiếm, nguồn gen hoang dã có giá trị, tầm quan trọng quốc gia, quốc tế. Trong những năm qua, hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên ngày càng được mở rộng và củng cố (trong đó nhiều khu đã được UNESCO công nhận có tầm quan trọng quốc tế). Tuy vậy, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học cũng đang chịu sức ép lớn từ phát triển kinh tế, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, suy thoái rừng và sự xâm lấn của các loài ngoại lai.
“Những tổn thất đó sẽ không thể đảo ngược nếu chúng ta không hành động kịp thời và kiên quyết, phát huy sức mạnh của toàn xã hội,” ông Trị nhấn mạnh.
Cho rằng việc tinh gọn bộ máy, sáp nhập các tỉnh thành là cơ hội lớn để củng cố bộ máy, hành động ngăn chặn đà suy giảm hệ sinh thái, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường khuyến nghị các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, cá nhân hãy có những hành động thiết thực để giải quyết vấn đề bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Trong đó, giải pháp trọng tâm là hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng kết hợp hài hòa giữa bảo tồn với khai thác, sử dụng hợp lý đa dạng sinh học; giữa bảo tồn, khai thác, sử dụng hợp lý đa dạng sinh học với việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển sinh kế xanh, du lịch sinh thái và giáo dục môi trường.
Cùng với đó, các bộ, ngành, địa phương cần thúc đẩy khoa học - công nghệ, chuyển đổi số trong giám sát và phục hồi hệ sinh thái; đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước để thu hút, gia tăng tối đa các nguồn hỗ trợ và đầu tư về tài chính cho công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, chia sẻ công bằng, hợp lý các lợi ích thu được từ nguồn gen và phát triển các mô hình sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Là địa phương đặc biệt quan tâm về bảo tồn, quản lý đa dạng sinh học, song ông Nguyễn Cao Sơn - Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh Bình, cho rằng những nghiên cứu, đánh giá gần đây cho thấy đa dạng sinh học của Ninh Bình cũng đang đứng trước nhiều thách thức, một số loài sinh vật quý hiếm đang có nguy cơ bị giảm sút về số lượng. Nguyên nhân là bởi tình trạng ô nhiễm môi trường, việc lạm dụng các loại phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất…
“Những tồn tại nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực đồng lòng, góp sức, chung tay hơn nữa để phát triển kinh tế-xã hội đi đôi với khai thác bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường; phải có sự quyết tâm mạnh mẽ trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của tỉnh. Hãy cùng nhau chung tay hành động vì chính cuộc sống của chúng ta hôm nay và vì những thế hệ tương lai,” ông Sơn nhấn mạnh.
Đối với tài nguyên biển, Tiến sỹ Nguyễn Song Tùng, Viện trưởng Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng nỗ lực mở rộng, nâng cao hiệu quả quản lý các khu bảo tồn biển là yêu cầu rất cấp thiết hiện nay, bởi đây là nền tảng cho phát triển bền vững.
Các tour du lịch sinh thái thân thiện với môi trường, cùng với những hoạt động khai thác bền vững khác, là đáp án để bảo vệ sinh kế và tương lai cho đất nước.
Tuy nhiên, bà Tùng cũng lưu ý việc bảo tồn biển không thể chỉ trông chờ vào các chính sách từ Trung ương, các cơ quan quản lý Nhà nước, mà cần sự tham gia tích cực của cộng đồng ven biển, doanh nghiệp và từng người dân. Muốn vậy, giải pháp đặt ra là cần thay đổi cách nhìn về bảo tồn, chuyển tư duy từ khai thác đơn thuần sang sử dụng bền vững và bảo tồn tài nguyên biển. Cùng với đó, hệ thống chính sách và pháp luật liên quan (như Luật Biển Việt Nam, Luật Tài nguyên và môi trường biển, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ môi trường) cũng cần được rà soát, điều chỉnh phù hợp, đặc biệt là có sự liên thông, đồng bộ và dễ thực thi.
“Mỗi hành động bảo vệ biển hôm nay chính là đóng góp thiết thực vào cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Mỗi người dân đều có thể góp phần hành động và bắt đầu từ những điều rất nhỏ như hạn chế sử dụng đồ nhựa dùng một lần, không xả rác ra biển, lựa chọn các tour du lịch sinh thái thân thiện với môi trường. Nếu là doanh nghiệp, hãy đầu tư vào các mô hình khai thác và nuôi trồng bền vững. Đây chính là cách để góp sức để giữ gìn ‘kho báu’ trong lòng biển ở lại với Việt Nam,” Tiến sỹ Nguyễn Song Tùng khuyến nghị.
Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Hoàng Thị Thanh Nhàn nhấn mạnh Việt Nam là một trong 16 quốc gia sở hữu đa dạng sinh học cao nhất thế giới với 3 nhóm hệ sinh thái cơ bản gồm hệ sinh thái trên cạn; hệ sinh thái đất ngập nước và hệ sinh thái biển. Đây là “kho báu” rất lớn mà thiên nhiên ban tặng, là vốn tự nhiên quan trọng để phát triển đất nước, có ý nghĩa không chỉ đối với thế hệ hôm nay mà còn đối với các thế hệ mai sau.
Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn.
Vì thế, bà Nhàn đề xuất trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật, bảo đảm thống nhất quản lý, phù hợp với các cam kết quốc tế và tình hình mới; lồng ghép bảo tồn đa dạng sinh học trong các quy hoạch, chiến lược, kế hoạch của các ngành kinh tế, đặc biệt là nông, lâm, ngư nghiệp, du lịch, giao thông, năng lượng, sử dụng đất; huy động sự tham gia của cộng đồng và khu vực tư nhân và các bên liên quan tham gia công tác bảo tồn, phục hồi, sử dụng bền vững đa dạng sinh học…
“
“Đặc biệt, để phát triển xanh bền vững trong thời gian tới, giải pháp quan trọng là phải kiểm soát chặt chẽ các tác động lên đa dạng sinh học, đặc biệt là tác động từ các dự án phát triển,” Tiến sỹ Hoàng Thị Thanh Nhàn nhấn mạnh.
Với kinh nghiệm nhiều năm phụ trách quản lý lĩnh vực địa chất và khoáng sản, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Quý Kiên cũng đặc biệt lưu ý tới tầm quan trọng của việc bảo tồn giá trị di sản thiên nhiên trong kỷ nguyên mới; nhất là các vùng “giàu có” về tài nguyên khoáng sản, nhưng thường chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai ở khu vực Tây Bắc, Đông Bắc, hay khu vực Bắc Trung Bộ.
“
Chúng ta thử nghĩ xem, khu vực Tây Bắc mà không giữ được rừng, thì ngay như hồ Hòa Bình, hồ Sơn La, hay thủy điện Lai Châu cũng sẽ không đảm bảo được nguồn nước để phát điện được dung tích tối đa, nên sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến vận hành. Việc mất rừng cũng sẽ ảnh hưởng đến việc đảm bảo mục tiêu mà Bộ Chính trị đã giao cho ngành nông nghiệp và môi trường là giữ và tăng dần tỷ lệ che phủ rừng (hiện là 42%). Tất cả các yếu tố đó, đòi hỏi chúng ta cần phải có một bài toán tổng hợp, để làm sao vừa khai thác được tiềm năng, lợi thế khoáng sản chiến lược quan trọng, nhưng mặt khác cần phải bảo vệ được rừng, bảo vệ nguồn nước, an ninh về năng lượng, an ninh về môi trường,”
Thứ trưởng Trần Quý Kiên nêu quan điểm
Ông Kiên cũng nhấn mạnh không phải ngẫu nhiên mà Quốc hội, theo đề nghị của Chính phủ, lần đầu tiên quy định Chính phủ ban hành danh mục khoáng sản chiến lược quan trọng của đất nước; từ đó có chính sách phát triển phù hợp, để khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản, vừa dự trữ lâu dài, góp phần quan trọng vào việc vươn mình của dân tộc - như lời “hiệu triệu” của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Ngoài ra, vị đại diện lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng cho rằng Nhà nước cần quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên khoáng sản chưa được khai thác, chưa được đưa vào quy hoạch, chưa được giao cho các tổ chức, cá nhân thăm dò theo quy định, nhất là đối với các loại khoáng sản quý phân bố nhỏ lẻ. Bởi lẽ, nếu để xảy ra tình trạng tổ chức, cá nhận khai thác trái phép sẽ rất bất lợi cho môi trường.
“Do vậy, các cơ quan tham mưu của tỉnh (nhất là Sở Nông nghiệp và Môi trường), trong quá trình góp ý, xây dựng kế hoạch phát triển giai đoạn 2026-2030, đặc biệt là chiến lược phát triển giai đoạn 2031-2040, cần phải tính toán chặt chẽ, để vừa bảo vệ, vừa phát huy nguồn lực tài nguyên thiên nhiên của đất nước,” ông Kiên nói thêm.
Công tác tuần tra, bảo vệ rừng luôn là nhiệm vụ hàng đầu tại Vườn quốc gia Cúc Phương, là một minh chứng của bảo vệ và phát huy nguồn lực tài nguyên thiên nhiên đất nước. (Ảnh TTXVN phát)
Đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Hà Giang (nay là tỉnh Tuyên Quang mới) cũng cho biết vừa rồi địa phương có quy hoạch để đưa vào đấu giá một số mỏ khoáng sản, nhưng qua quá trình đi kiểm tra thì thấy vẫn cần phải nghiên cứu. Bởi địa phương này sở hữu Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn, nên các hoạt động khai thác đá sẽ gây ảnh hưởng. Vì vậy, đại diện địa phương này cho rằng cần phải có cơ chế, chính sách đổi mới về quản lý, để vừa khai thác phục vụ phát triển kinh tế, nhưng đồng thời cũng phải gìn giữ, bảo vệ di sản. Quan điểm của chính quyền địa phương là phải bảo vệ di sản để phát triển thế mạnh về du lịch.
Dẫn thực tế “tang thương” từ những núi đá bị khai thác tan hoang, trong khi người dân cầu cứu bởi ô nhiễm, việc thành lập Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voọc mông trắng Kim Bảng gặp nhiều khó khăn, ông Trương Văn Hà - Trưởng Phòng khoáng sản, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nam (nay là tỉnh Ninh Bình), cũng cho rằng: “Nếu phát triển mà để ảnh hưởng đến môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, thì công cuộc phát triển đó sẽ không bao giờ bền vững được.”
“Các lãnh đạo, nguyên thủ vẫn thường nói phát triển thì cần phải theo hướng xanh và bền vững. Hơn nữa, Việt Nam, trực tiếp là Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký cam kết hướng tới Net Zero vào năm 2050 rồi, thì đòi hỏi địa phương cũng phải có những động thái quyết liệt ngay từ bây giờ,” ông Hà chia sẻ thêm.
Những hành động quyết liệt mới được kỳ vọng sẽ hồi sinh rừng.
Nhận thức được điều đó, năm 2024, Hà Nam đã thống nhất sẽ chấm dứt hoạt động của 20 mỏ đá trên địa bàn các phường Tân Sơn, Tượng Lĩnh, Ba Sao và xã Liên Sơn trước ngày 31/12/2025; thực hiện cải tạo phục hồi môi trường đất đai để bàn giao diện tích đất của dự án cho địa phương để thực hiện các dự án phát triển xanh, bền vững. Đối với những doanh nghiệp đã được cấp phép hoạt động khoáng sản ở khu vực giáp ranh với khu bảo tồn thì dứt khoát phải có khoảng cách nhất định và có các giải pháp khi sử dụng vật liệu nổ công nghiệp trong khai thác khoáng sản.
Đặc biệt quan tâm tới tầm quan trọng của “lá phổi xanh” toàn cầu đối với sự sống, nhất là “kho báu” thiên nhiên, đa dạng sinh học vô cùng phong phú tại Việt Nam, đại diện các tổ chức quốc tế cũng cam kết sẽ đồng hành cùng Việt Nam trong việc thúc đẩy các nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học theo theo cách tiếp cận bao trùm, dựa trên cơ sở khoa học và gắn kết chặt chẽ với các ưu tiên của quốc gia.
Nhấn mạnh mất đa dạng sinh học sẽ đe dọa đến các yếu tố nền tảng quan trọng của nền kinh tế, an ninh lương thực và sức khỏe của con người, ông Patrick Haverman, Phó Trưởng Đại diện Thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, cho rằng đây không chỉ là mối quan tâm của quốc gia, mà còn phản ánh một cuộc khủng hoảng toàn cầu, nên cần phải cấp bách hành động.
Ông Patrick Haverman cũng cho hay để góp phần giúp Việt Nam thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế, UNDP đang hợp tác chặt chẽ với các đối tác Trung ương và địa phương nhằm thúc đẩy các giải pháp thuận thiên, nâng cao hiệu quả quản lý các khu bảo tồn và hỗ trợ các hoạt động bảo tồn do cộng đồng dẫn dắt. Những nỗ lực này giúp Việt Nam tiến gần hơn đến các Mục tiêu Phát triển Bền vững như SDG 13 (Hành động về khí hậu), SDG 14 (Tài nguyên và Môi trường biển), SDG 15 (Tài nguyên và Môi trường trên đất liền), và SDG 1 (Xóa nghèo).
UNDP cũng cam kết sẽ hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện NBSAP thông qua hướng dẫn kỹ thuật và kết nối nguồn tài chính, đánh giá rủi ro từ loài ngoại lai xâm hại đối với hệ sinh thái và cộng đồng; phối hợp lồng ghép đa dạng sinh học vào các lĩnh vực như nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, du lịch để phát triển bền vững.
“Hãy cùng nhau xây dựng một tương lai nơi con người và thiên nhiên cùng phát triển thịnh vượng. Cùng nhau, chúng ta hy vọng sẽ đảo ngược tình trạng mất đa dạng sinh học và đảm bảo một tương lai bền vững cho các thế hệ mai sau,” Phó Trưởng Đại diện Thường trú UNDP tại Việt Nam, kêu gọi.
Ông Thibault Ledecq - Giám đốc Bảo tồn, Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF-Việt Nam), cũng nhấn mạnh đa dạng sinh học là nền tảng cho an ninh lương thực, ứng phó biến đổi khí hậu, sinh kế của hàng triệu người dân và tiềm năng tăng trưởng xanh. Vì vậy, trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam cần coi bảo tồn thiên nhiên là nhân tố thiết yếu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
“Trong giai đoạn 2025-2030, WWF-Việt Nam sẽ triển khai kế hoạch hỗ trợ thí điểm công nhận các khu vực có biện pháp bảo tồn hiệu quả khác (OECM) tại Việt Nam, ghi nhận diện tích bảo tồn đa dạng sinh học tại các khu vực ngoài khu bảo tồn để đưa vào báo cáo của quốc gia. Khi đó, Việt Nam sẽ trở thành một thành viên tích cực đóng góp cho các mục tiêu toàn cầu,” ông Thibault Ledecq chia sẻ.
Tuy vậy, đại diện WWF-Việt Nam cũng kêu gọi vai trò tiên phong của các cá nhân và tổ chức trong công tác bảo tồn, từ việc đưa bảo tồn đa dạng sinh học vào Nghị trường, đến ủng hộ, lồng ghép bảo tồn vào chính sách, phát triển kinh tế - để chiến lược bảo tồn đi từ “trách nhiệm” thành “cơ hội phát triển” trong thời gian tới.
Giám đốc quản lý mảng chính sách khí hậu, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) - ông Daniel Herrmann, cũng cho rằng việc Việt Nam cùng theo đuổi song song mục tiêu SDGs (Mục tiêu Phát triển Bền vững) và Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh - Montreal (GBF) tới năm 2030 là minh chứng cho thấy quyết tâm hướng tới một tương lai thịnh vượng và bền vững cho đất nước hơn 100 triệu dân.
Trên tinh thần đó, GIZ cam kết sẽ phối hợp cùng Bộ Nông nghiệp và Môi trường để thúc đẩy quản lý tổng hợp các khu bảo tồn có hệ sinh thái đa dạng, tập trung vào việc nâng cao năng lực thể chế và kỹ thuật cho công tác quản lý tổng hợp các khu bảo tồn; thúc đẩy OECM tại Việt Nam và đưa ra các đề xuất cho công tác giám sát đa dạng sinh học trong nước, nhằm đáp ứng các cam kết đối với GBF.
Trước khi kết thúc loạt bài này, chúng tôi xin trích dẫn thông điệp “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” trong bài diễn văn tại lễ kỷ niệm 50 năm đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025) của Tổng Bí thư Tô Lâm. Thông điệp này có sức hiệu triệu, kêu gọi tinh thần đoàn kết để mỗi người Việt Nam cùng có trách nhiệm chung tay xây dựng đất nước vì mục tiêu phát triển bền vững, trường tồn.
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng với những thành tựu vĩ đại đã đạt được, chúng ta đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới để đưa đất nước vươn mình, cất cánh, “sánh vai với các cường quốc năm châu.” Để hiện thực hoá khát vọng xây dựng nước Việt Nam “hơn mười ngày nay,” chúng ta cần phải giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước để thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế-xã hội.
Chia sẻ của Tổng Bí thư cũng phần nào đó nhắc nhớ rằng phát triển kinh tế là tất yếu, nhưng phát triển theo hướng xanh thì mới vững bền cho tương lai. Điều đó cũng đặt ra “mệnh lệnh” rằng đã đến lúc cần có một tầm nhìn dài hạn cho thiên nhiên. Một chiến lược dài hơi và kiên định, trong đó thiên nhiên không phải là phần thừa sau cùng của quy hoạch, mà là cấu phần cốt lõi trong phát triển bền vững.
Quan trọng hơn, tầm nhìn dài hạn cho thiên nhiên không phải nằm trên bản vẽ, mà trong cách đặt ra giới hạn cho phát triển hôm nay. Đó là câu hỏi: Sau mỗi dự án, chúng ta để lại được gì cho thiên nhiên? Chúng ta không thể xây dựng tương lai bằng cách cắt xẻ dần dần những không gian sống vốn không thể tái tạo.
Ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên. (Ảnh: PanNature)
Nói như chuyên gia Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên, rằng chúng ta đang sống trong một giai đoạn đầy chuyển động, với nhiều cơ hội: Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở hạ tầng mở rộng, đời sống người dân không ngừng được cải thiện. Dự báo cho thấy trong vài thập kỷ tới, Việt Nam sẽ đạt trình độ phát triển cao hơn, dân số bước vào giai đoạn ổn định, đô thị hóa đạt mức tương đối hoàn thiện. Khi đó, chúng ta sẽ có nguồn lực, công nghệ, và tầm nhìn để làm điều mà trước nay vốn thường bị trì hoãn: “Đầu tư cho thiên nhiên, không phải vì vẻ đẹp lãng mạn, mà vì sự sống còn của chính xã hội hiện đại.”
Ông Nguyên cũng khuyến nghị rằng trong một nền kinh tế hiện đại, nơi đô thị phát triển và công nghệ tiên tiến, thiên nhiên không thể chỉ được bảo tồn trong các khu rừng hẻo lánh. Do vậy, cần “tái lập thiên nhiên” ngay trong lòng thành phố, nơi những dòng sông được khơi thông, rừng ngập mặn được trả lại cho bờ biển, và chim hoang có thể làm tổ trên mái nhà xanh. Tương lai của bảo tồn không chỉ nằm trong rừng sâu, mà nằm ngay trong từng lựa chọn phát triển đô thị, kinh tế.
Vì thế, trong tương lai, thiên nhiên không thể chỉ hiện diện ở những vùng lõi xa xôi. Bởi lẽ, một đất nước phát triển bền vững là nơi thiên nhiên trở lại giữa lòng đô thị, trong công viên, bên dòng kênh, dưới mái nhà xanh và trong cách con người sống gần với đất, với nước, với rừng. Thiên nhiên không nên bị đóng khung trong khu bảo tồn, mà cần được dệt lại trong chính cấu trúc của xã hội hiện đại.
Những tổn thất đối với tài nguyên thiên nhiên sẽ không thể đảo ngược, nếu không hành động kịp thời và kiên quyết từ sớm, từ xa.
Một điều có thể khẳng định ngay từ hôm nay rằng: Khi đất nước đi lên, chúng ta không chỉ có cơ hội để bảo tồn, mà còn có trách nhiệm phải làm tốt hơn những gì cha ông đã làm. Và trong một thế kỷ tới, có thể GDP sẽ tăng gấp mười, có thể khoa học công nghệ, chuyển đổi số sẽ thay đổi mọi mặt đời sống - nhưng nếu không có rừng xanh, biển sạch, không có tiếng chim hót và sinh cảnh cho loài hoang dã sinh tồn, thì phát triển ấy có thật sự mang lại ý nghĩa cho con người?
Hơn thế, những tổn thất đối với tài nguyên thiên nhiên sẽ không thể đảo ngược, nếu không hành động kịp thời và kiên quyết từ sớm, từ xa. Vì vậy, cần phát huy sức mạnh của toàn xã hội - từ chính quyền, doanh nghiệp, tổ chức xã hội đến từng người dân. Trong bối cảnh đó, việc sáp nhập các tỉnh, thành phố đang là cơ hội lớn để Việt Nam kiến thiết lại không gian bảo tồn - “kho báu” di sản thiên nhiên, để đất nước ta thực sự vươn mình trong Kỷ nguyên mới, không ai bị bỏ lại phía sau./.
Khi đất nước đi lên, chúng ta không chỉ có cơ hội để bảo tồn, mà còn có trách nhiệm phải làm tốt hơn những gì cha ông đã làm.