Dấu ấn về xây dựng và bảo vệ nền độc lập, chủ quyền quốc gia
Xuân Quảng•30/08/2025 14:23
Từ đấu tranh giành độc lập năm 1945 đến công cuộc xây dựng và bảo vệ nền độc lập đó là cả một chặng đường vinh quang của dân tộc Việt Nam được thể hiện trên những dấu ấn cơ bản.
Mỗi dân tộc đều có quyền tự hào về nền độc lập, chủ quyền của mình. Đó cũng là nguyên tắc tối thượng, bất khả xâm phạm trong quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc trên thế giới. Bất kể trong thời nào, tự cổ chí kim, đấu tranh cho độc lập, chủ quyền thống nhất luôn là dòng chủ đạo bảo đảm sự sống còn của mỗi quốc gia - dân tộc.
Trong thế kỷ XX, Việt Nam tự hào vì đã chiến thắng phát xít, thực dân, đế quốc; giành được độc lập, tự do và thống nhất đất nước và trở thành ngọn cờ đầu, truyền cảm hứng lớn, với niềm tin mãnh liệt đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở khắp các nước ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ Latinh. Từ thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - giành độc lập, chủ quyền thống nhất đến thắng lợi trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược - bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước… Đó là cả một chặng đường vinh quang, khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Sáng 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (Ảnh: TTXVN)Sáng 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (Ảnh: TTXVN)80 năm Cách mạng tháng Tám thành công- Cuộc cách mạng vĩ đại, trang sử vẻ vang trong lịch sử dân tộc Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)80 năm Cách mạng tháng Tám thành công- Cuộc cách mạng vĩ đại, trang sử vẻ vang trong lịch sử dân tộc Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Đối với diện với sức mạnh vượt trội của chủ nghĩa thực dân phương Tây, triều đình nhà Nguyễn đang trong cơn khủng hoảng, trì trệ, phản kháng yếu ớt, rồi nhanh chóng đầu hàng. Tiếp đó, một loạt các phong trào đấu tranh của sĩ phu yêu nước, của nông dân, tuy rất nhiệt thành, anh dũng, nhưng sau cùng vẫn bị quân giặc dìm trong biển máu.
Dẫu vậy, các cuộc khởi nghĩa, đấu tranh chống Pháp thời kỳ này có ý nghĩa to lớn: Tinh thần tự tôn dân tộc, lòng yêu nước và nhiệt huyết cứu nước, cứu nhà, đánh đuổi quân xâm lăng để khôi phục nền độc lập, chủ quyền quốc gia vẫn lan tỏa và thúc giục mọi người dân yêu nước Việt Nam đứng lên đấu tranh. Đến ngày 06-6-1884, triều đình nhà Nguyễn đã ký với thực dân Pháp Hiệp ước Pa-tơ-nốt, Việt Nam từ một quốc gia độc lập, chủ quyền, chính thức trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, nhân dân ta trở thành nô lệ, nước Việt Nam bị xóa tên trên bản đồ quốc tế.
Dưới ách cai trị, bóc lột hà khắc của thực dân Pháp, cộng thêm sự phản động, thối nát của phong kiến Nam triều, ngọn lửa căm hờn bùng cháy, các cuộc khởi nghĩa đủ màu sắc (đại diện giai cấp địa chủ, phong kiến, sĩ phu yêu nước, nông dân, cả giáo dân) nổ ra nhưng đều bị quân địch dập tắt.
Tháng 12/1920, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc ủng hộ Luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Khát khao khôi phục độc lập cho đất nước, tự do, hanh phúc cho nhân dân, song hành với khuynh hướng đấu trang vũ trang là làn sóng cải cách, tiêu biểu là phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng và phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh lãnh đạo. Tuy không thành công, nhưng phong trào Đông Du và phong trào Duy Tân chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử dân tộc, bởi qua đó đã tập hợp, đào luyện ra một lớp người trẻ tuổi tràn đầy nhiệt huyết cứu nước, sẵn sàng tiếp nhận đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn và khoa học.
Khủng hoảng đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng là nguyên nhân trọng yếu nhất dẫn đến hệ quả thất bại của các phong trào đấu tranh yêu nước ở Việt Nam lúc bấy giờ. Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước, mở ra tương lai rực rỡ cho dân tộc Việt Nam gắn liền với vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Bộ chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ: Chủ tịch Hồ Chí Minh (giữa), Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp (ngoài cùng bên phải) và các đồng chí trong Bộ Chỉ huy chiến dịch. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể trong nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, đoàn kết tất thảy mọi người dân Việt Nam, không phân biệt đảng phái, dân tộc, lương giáo, giai cấp, đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế, kề vai sát cánh đấu tranh đánh đuổi thực dân. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã được phát huy cao độ, được tập rượt qua các phong trào cách mạng 1930 - 1931 và phong trào cách mạng dân chủ 1936 - 1939; tiếp đó, là phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Hội đồng Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra mắt sau phiên họp đầu tiên, sáng 3/9/1945. (Ảnh: TTXVN)
Đặc biệt, ngay khi Nhật đảo chính Pháp (09-3-1945) - Điều mà trước đó Trung ương Đảng ta đã sớm dự liệu, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã sáng suốt và kịp thời ra Chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-3-1945) phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng đã chớp thời cơ ngàn năm có một, bằng ý chí “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” và quyết tâm “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, đã làm nên thắng lợi vĩ đại của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào và nhân dân thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và cũng là chính quyền dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á và Châu Á.
Từ đây, nước Việt Nam mới đã chính thức khắc tên quốc thể vào bản đồ thế giới, nền độc lập, chủ quyền quốc gia được khôi phục, quyền tự do của dân tộc được xác lập và lời thề thiêng liêng trước tổ tiên dòng dõi Lạc Hồng, rằng: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong buổi đầu thành lập phải đương đối với muôn vàn khó khăn, thử thách bởi “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”; cộng thêm, sự xuất hiện của lực lượng Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật. Chưa bao giờ trên đất nước ta lại xuất hiện nhiều quân đội nước ngoài đến thế. Chúng tuy khác nhau về màu da, tiếng nói, nhưng thống nhất với nhau trong mục tiêu xóa bỏ chính quyền cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Nền độc lập, chủ quyền nước nhà đứng trước tình thế hiểm nghèo như “ngàn cân treo sợi tóc”. Đứng trước tình thế nguy nan, hiểm nghèo đó, Trung ương Đảng, Chính phủ lâm thời đã xác định nhiệm vụ quan trọng trước mắt là củng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân - Đây là nhiệm vụ cốt tử của cách mạng.
Người dân chong đèn học chữ trong những ngày đầu đất nước giành độc lập. (Ảnh: TTXVN)
Để giữ vững thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện đường lối chiến lược, sách lược rất tài tình, linh hoạt và sáng tạo. Về chính quyền, đã sớm tổ chức Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu bầu Chính phủ, lập Quốc hội, ban hành Hiến pháp. Về ngoại giao, thực hiện phương châm: “Thêm bạn, bớt thù”, “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, thực hành sách lược “Hòa hoãn với Tưởng để đánh Pháp”, và sau đó lại “Hòa hoãn với Pháp” để đuổi gần 20 vạn quân Tưởng về nước”. Về kinh tế, huy động toàn dân hưởng ứng “Tuần lễ Vàng” và “Quỹ Độc lập”… chỉ sau một tuần lễ, Chính phủ đã huy động được 370kg vàng và hơn 60 triệu đồng… Về văn hóa, phát động phong trào “Bình dân học vụ” để xóa nạn mù chữ cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II tổ chức tại Chiến khu Việt Bắc (2/1951) - Đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng. Đảng từ bí mật trở lại hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển cách mạng. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Triển khai đồng bộ, kịp thời các biện pháp chiến lược, sách lược đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng đã trụ vững một cách kiên cường trong sự bao vây, cô lập, chống phá quyết liệt của kẻ thù; thực lực cách mạng được củng cố, kinh tế, văn hóa, giáo dục được cải thiện. Đó là sự chuẩn bị có ý nghĩa căn bản về tiềm lực cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ (19-12-1946), chính quyền cách mạng đã phát huy vai trò trụ cột, trung tâm huy động nhân lực, vật lực cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Từ Chính phủ đến các địa phương, cả vùng tự do và vùng tạm chiếm đều phát huy sức mạnh của chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng hậu phương vững chắc, trực tiếp đánh địch và chi viện tiền tuyến.
Trong sự bao vây, tiến công của kẻ thù, chính quyền cách mạng non trẻ chẳng những không bị tiêu diệt mà còn tỏ rõ sức mạnh vĩ đại, minh chứng cho chân lý: Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng; nhờ đó, nhân dân ta đã phát huy tối đa sức mạnh chính nghĩa, đoàn kết toàn dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế từng bước đập tan các kế hoạch tiến công chiến lược của quân Pháp, đưa cuộc kháng chiến tiến lên mạnh mẽ; từ phòng ngự, cầm cự, chuyển sang tiến công chiến lược.
Đặc biệt, trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954, với đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954) “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, ta đã buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (21-7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. Nhà Sử học người Pháp Jules Roy thừa nhận, xét trên phạm vi thế giới: “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hòa. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn hãy còn vang vọng”.
Khai mạc ngày 8/5/1954, Hội nghị Geneva về Đông Dương đã trải qua 75 ngày thương lượng căng thẳng với 31 phiên họp. Ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneva về Đông Dương được ký kết. Đây là văn kiện ngoại giao quan trọng yêu cầu các quốc gia tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước Đông Dương. Trong ảnh: Toàn cảnh Hội nghị Geneva về Đông Dương tại Thụy Sĩ (1954). (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ thực sự là cái mốc bằng chói lọi bằng vàng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đảm nhiệm vai trò hậu phương lớn - Nhân tố quyết định nhất hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, cách mạng Việt Nam thực hiện đồng thời hai chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đảng ta xác định rất rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ lịch sử của chiến lược cách mạng hai miền đất nước. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đảm nhận vai trò hậu phương lớn chi viện cách mạng miền Nam Việt Nam, là nhân tố quyết định nhất thắng lợi cách mạng cả nước. Miền Nam là tiền tuyến lớn của cả nước, giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đuổi Mỹ - ngụy, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới thống nhất đất nước và cùng cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hưởng ứng phong trào Thanh niên “Ba sẵn sàng”, thanh niên Hà Tây nô nức lên đường chiến đấu (tháng 8/1964), sau khi Mỹ mở rộng đánh phá bằng không quân ra miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. (Ảnh: Kim Hùng - TTXVN)
Thực hiện đường lối kháng chiến độc lập tự chủ, đúng đắn sáng tạo của Trung ương Đảng, với tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Vì miền Nam ruột thịt, mỗi người làm việc bằng hai”, “Xe dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”…, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở hai miền đất nước đã đoàn kết một lòng, vừa xây dựng vừa kháng chiến, kiên quyết không ngừng thế tiến công, đứng trên đầu thù để diệt thù; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp đập tan mọi âm mưu, kế hoạch chiến tranh xâm lược, từ “Chiến tranh đơn phương” đến “Chiến tranh đặc biệt”; từ “Chiến tranh cục bộ” đến “Việt Nam hóa chiến tranh” qua 5 đời tổng thống Mỹ.
Thanh niên xung phong vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu. (Ảnh: Minh Trường - TTXVN)
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975); miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã dốc vào chiến trường miền Nam tất cả sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và đã hoàn thành xuất sắc vai trò của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam ruột thịt, thành đồng của Tổ quốc.
Có được chỗ dựa vững chắc và không ngừng phát triển hùng mạnh của hậu phương lớn miền Bắc, quân và dân miền Nam thực hiện triệt để phương châm “hai chân, ba mũi, ba vùng chiến lược”, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, đánh địch để làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch… Đảng ta đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng và sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân thời đại Hồ Chí Minh, thực hành thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến thắng vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vàongày 30-4-1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất giang sơn, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sau giải phóng miền Nam, đất nước thống nhất, những tưởng dân tộc Việt Nam sẽ được sống trong hòa bình để khắc phục hậu quả sau bao năm chiến tranh tàn phá, xây dựng và phát triển đất nước. Nhưng không, các thế lực phản động quốc tế câu kết với chủ nghĩa đế quốc đã tăng cường chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, gây ra cuộc chiến tranh xâm lược ở hai đầu biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc Việt Nam.
Một lần nữa, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bị xâm phạm. Trước vận mệnh sống còn của quốc gia - dân tộc, nhân dân ta buộc phải đứng lên tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, như lời bài hát của Nhạc sĩ Phạm Tuyên viết: “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới. Gọi toàn dân ta vào cuộc chiến đấu mới”.
Xe tăng địch bị quân và dân Cao Bằng tiêu diệt tại mặt trận đồi Thanh Sơn, khu vực Nà Toàng, ngày 19/2/1979. (Ảnh: Mạnh Thường/ TTXVN)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quân và dân cả nước đã đoàn kết chiến đấu muôn người như một, cả dân tộc đứng lên quyết đập tan mọi mưu đồ và hành động đen tối của kẻ thù. Tinh thần, ý chí và quyết tâm của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh bảo vệ công lý, hòa bình và chính nghĩa đã tác động sâu sắc đến nhân loại tiến bộ, khiến cho làn sóng ủng hộ, đoàn kết với Việt Nam trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Sau cùng, trước sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh nhân dân độc đáo của Đảng ta, quân và dân ta đã chặn đứng mọi mũi tiến công của địch, đập tan mọi mưu đồ xâm lược ở hai đầu biên giới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Bộ Chỉ huy mặt trận Lạng Sơn cùng chỉ huy Đoàn 327 bàn phương án tác chiến tại hang Chùa Tiên (thị xã Lạng Sơn). (Ảnh: Văn Bảo/TTXVN)
Đáng chú ý, song song với nhiệm vụ dân tộc - đấu tranh bảo vệ Tổ quốc - Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân Việt Nam còn lập nên một kỳ tích có một không hai trong lịch sử thế giới: Trong hơn 10 năm, đã hoàn thành vẻ vang nghĩa vụ quốc tế, tiêu diệt chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Sary, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng và thực hiện thắng lợi công cuộc tái thiết đất nước Campuchia từ tro tàn, tan hoang cùng kiệt; kiến tạo xây dựng sức mạnh của chính quyền cách mạng, bảo đảm cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Campuchia.
Người dân Campuchia đứng hai bên đường vẫy chào, chia tay quân tình nguyện Việt Nam về nước năm 1989. (Ảnh: TTXVN)
Trong khi tiếng súng trên bầu trời biên giới vẫn chưa ngưng, một trong những khó khăn lớn mang tính cấp thiết đòi hỏi phải giải quyết: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã từng khẳng định vai trò và tác dụng lịch sử, rất phù hợp trong điều kiện đất nước có chiến tranh; nhưng, trong điều kiện mới đã bộ lộ những hạn chế, làm suy giảm lực lượng sản xuất, và quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu đã trở thành rào cản sự phát triển vững mạnh của quốc gia - dân tộc.
Lịch sử Việt Nam cho thấy, khi vận mệnh quốc gia - dân tộc đứng trước thách thức thời đại thì cũng là lúc xuất hiện những quyết định làm dịch chuyển vòng quay của lịch sử. Từ “khoán chui” trong nông nghiệp, “xé rào” trong công nghiệp… đã cung cấp những luận cứ khoa học để Trung ương Đảng thống nhất thông qua “Nghị quyết Đổi mới” tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15 đến 18/12/1986 tại Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 1.129 đại biểu, thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong cả nước. (Ảnh: TTXVN)
Sự đột phá về tư tưởng, đổi mới tư duy bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng đã trở thành động lực, khơi dậy mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của người Việt Nam trong bảo vệ độc lập, chủ quyền trước những thách thức, khó khăn đang đe dọa đến sự an nguy của dân tộc. Công cuộc Đổi mới đất nước do Đại hội VI khởi xướng đã thực sự trở thành cuộc cách mạng, dấu ấn quan trọng trong dòng chảy lịch sử dân tộc, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền đất nước, bảo vệ an ninh chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trước cuộc khủng hoảng trầm trọng, sâu sắc, toàn diện của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới diễn ra cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh phát biểu tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (15 - 18/12/1986). (Ảnh: TTXVN)
Sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trở thành chân lý phổ quát, bài học kinh nghiệm xuyên suốt của cách mạng Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thành công của công cuộc Đổi mới đất nước đã khơi thông mọi nguồn lực trong nước hướng đến kết hợp với nguồn lực quốc tế. Đặc biệt, từ năm 1995, khi Mỹ xóa bỏ bao vây cấm vận kinh tế và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, cùng với chủ trương “Việt Nam muốn là bạn” với các nước trong cộng đồng quốc tế đã đưa nước ta từng bước hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới.
Đến năm 2025, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với 33 nước, trong đó có tất cả các nước lớn; ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) với sự tham gia của khoảng 60 nền kinh tế; tham gia nhiều tổ chức khu vực và quốc tế: ASEAN, ASEM, APEC, WTO…
Sáng 11/1/2007, tại trụ sở Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ở Geneva (Thuỵ Sĩ) treo biểu ngữ "Chào mừng Việt Nam" bằng các thứ tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. (Ảnh: Lan Hương/TTXVN)
Hội nhập quốc tế chủ động, tích cực ngày càng sâu sắc và rộng mở đã tạo ra nguồn lực quan trọng, phục vụ đắc lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, kinh tế, quốc phòng, an ninh đã thúc đẩy quan hệ song phương và đa phương với các nước và các đối tác đi vào chiều sâu.
Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tập trung vào phát triển công nghiệp trên nền tảng khoa học-công nghệ; hình thành các ngành công nghiệp nền tảng... (Ảnh: TTXVN)Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tập trung vào phát triển công nghiệp trên nền tảng khoa học-công nghệ; hình thành các ngành công nghiệp nền tảng... (Ảnh: TTXVN)Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tập trung vào phát triển công nghiệp trên nền tảng khoa học-công nghệ; hình thành các ngành công nghiệp nền tảng... (Ảnh: TTXVN)Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tập trung vào phát triển công nghiệp trên nền tảng khoa học-công nghệ; hình thành các ngành công nghiệp nền tảng... (Ảnh: TTXVN)Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tập trung vào phát triển công nghiệp trên nền tảng khoa học-công nghệ; hình thành các ngành công nghiệp nền tảng... (Ảnh: TTXVN)Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tập trung vào phát triển công nghiệp trên nền tảng khoa học-công nghệ; hình thành các ngành công nghiệp nền tảng... (Ảnh: TTXVN)Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tập trung vào phát triển công nghiệp trên nền tảng khoa học-công nghệ; hình thành các ngành công nghiệp nền tảng... (Ảnh: TTXVN)
Việt Nam đã tích cực tham gia các cơ chế đối thoại, hợp tác an ninh khu vực và thế giới, tiêu biểu như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-La, cũng như nhiều sáng kiến đa phương khác nhằm đối phó hiệu quả trước các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống…
Đặc biệt, từ năm 2014, Việt Nam quyết định cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Trong hơn 10 năm qua, Quân đội đã cử 1.052 lượt cán bộ, nhân viên và Công an cử 13 sĩ quan tham gia Phái bộ Liên hợp quốc gìn giữ hòa bình tại khu vực Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, Abyei...
Đội Công binh số 2 gồm 203 người, trong đó 184 chính thức và 19 dự bị. (Ảnh: An Đăng - TTXVN)Lễ tiễn Đội Công binh số 2 lên đường thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Phái bộ UNISFA, khu vực Abyei. (Ảnh: An Đăng/TTXVN)Lễ tiễn Đội Công binh số 2 lên đường thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Phái bộ UNISFA, khu vực Abyei. (Ảnh: An Đăng/TTXVN)Đội Công binh số 2 gồm 203 người, trong đó 184 chính thức và 19 dự bị. (Ảnh: An Đăng - TTXVN)
Việc tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc đã khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; góp phần tăng cường vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp thiết thực vào việc giải quyết các vấn đề an ninh, bảo vệ hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới, góp phần tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hình ảnh “Chiến sĩ mũ nồi xanh” - Một trong những biểu hiện cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới tiếp tục lan tỏa sâu rộng đến với bạn bè khắp năm châu.
Đối thoại Chính sách quốc phòng Việt Nam-Hoa Kỳ lần thứ 13. (Ảnh: Trọng Đức/TTXVN)
Bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên phát triển thịnh vượng của dân tộc Việt Nam, việc tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc cũng thể hiện bước phát triển mới về công tác hội nhập quốc tế của Quân đội nhân dân Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hội nhập quốc tế và khu vực; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, bằng các biện pháp hòa bình.
Xe rước chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến vào Lễ đài nhân dịp đại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9. (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)Xe mô hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đi đầu khối diễu binh, diễu hành. (Ảnh: TTXVN)Khối cờ Đảng, cờ Tổ quốc. (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)Xe mô hình biểu tượng 80 năm Ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam. (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)Màn trình diễn của biên đội máy bay trực thăng Mi-171, Mi-17, Mi-8 mang theo cờ Đảng, cờ Tổ quốc bay qua khu vực Quảng trường Ba Đình. (Ảnh: TTXVN)Sẵn sàng cho màn diễu binh các lực lượng vũ trang trên biển. (Ảnh: Quân chủng Hải quân/TTXVN phát)
Để bảo vệ độc lập, chủ quyền trong quá trình hội nhập quốc tế sâu sắc, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững quan điểm kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó dựa vào sức mình, dựa vào nội lực đất nước là chính, khơi dậy và phát huy cao độ nội lực, tranh thủ tối đa các nguồn ngoại lực.
Quán triệt quan điểm đó, các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh của nước ta luôn bảo đảm tự chủ, tự lực, tự cường, không bao giờ bị lệ thuộc, không bao giờ bị ép buộc hay chịu sự chi phối của nước ngoài. Trong lĩnh vực quốc phòng, chúng ta luôn kiên định chính sách quốc phòng “bốn không”, mọi hoạt động quân sự, từ xây dựng lực lượng vũ trang đến phát triển công nghiệp quốc phòng đều nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thể hiện sâu sắc tính chất quốc phòng hòa bình, tự vệ; thực kiện kế sách giữ nước “từ sớm, từ xa”, từ khi nước chưa nguy.
Chương trình nghệ thuật mở màn Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) sáng 2/9/2025. (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)Đội hình máy bay Su30-MK2, trình diễn bay trên bầu trời Ba Đình lịch sử chào mừng đại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9. (Ảnh: Hoài Nam/Vietnam+)Khối Không quân Việt Nam biểu diễn chào mừng, bay qua Quảng trường Ba Đình, mang cờ Đảng và cờ Tổ quốc tự hào gây xúc động mạnh mẽ cho người xem lễ tổng duyệt diễu binh, diễu hành. (Ảnh: PV/Vietnam+)Nghi lễ bắn 21 loạt đại bác trên nền Quốc thiều nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ Sân vận động quốc gia Mỹ Đình. (Ảnh: Trần Thanh Giang/TTXVN)Trong đội hình xe quân sự tham gia tổng duyệt diễu binh, diễu hành Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9 có sự xuất hiện của nhiều loại vũ khí, khí tài hiện đại bậc nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam. (Ảnh: PV/Vietnam+)Người dân háo hức chờ đón các đoàn diễu binh, diễu hành. (Ảnh:Vietnam+)
Xây dựng và bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, liên tục của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Mặc dù ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử, nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc có khác nhau, nhưng mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nền văn hóa và lợi ích quốc gia dân tộc.
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9, chúng ta điểm lại những dấu ấn quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ độc lập, chủ quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để mỗi người Việt Nam luôn tin tưởng, tự hào và quyết tâm xây dựng, bảo vệ nền độc lập, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc như bảo vệ chính bản thân mình./.
Nội dung: Thiếu tướng, PGS. TS NGUYỄN VĂN SÁU
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và lịch sử quốc phòng Việt Nam
Bình luận của bạn đã được gửi và sẽ hiển thị sau khi được duyệt bởi ban biên tập.
Ban biên tập giữ quyền biên tập nội dung bình luận để phù hợp với qui định nội dung của Báo.